CON LỪA VÀ TÔI _ JUAN RAMÓN JIMÉNEZ
_ VẺ ĐẸP CỦA THI CA ĐỒNG NỘI .
Một bài thơ trữ tình về thiên nhiên và con người , sự tinh tế nhưng đầy tính trong sáng trong ngôn ngữ của tác phẩm đưa chúng ta nhớ về tuổi trẻ với những giấc mộng êm đềm . Mời các bạn cùng đọc " Con lừa và tôi " ( Platero et Moi ) của Juan Ramon Jimenez để xúc cảm và rung động với giọng văn tuyệt tác đầy tính thi ca của tác giả . Juan Ramón Jiménez và vợ Zenobia Camprubí |
Tên : Juan Ramón Jiménez Mantecón
Sinh ngày 24 tháng 12 , 1881
tại Moguer, Spain
Mất ngày 29 tháng 5 , 1958 (76 tuổi )
tại Santurce, Puerto Rico
Thi sĩ .
Quốc tịch : Tây Ban Nha .
Giải Nobel văn học năm 1956
Mantecón Juan Ramón Jiménez (23 tháng 12 năm 1881 - ngày 29 tháng 5 năm 1958) là nhà thơ Tây Ban Nha, ông là người xuất bản nhiều tác phẩm và đã nhận được giải Nobel Văn học năm 1956. Một trong những đóng góp quan trọng nhất của Jiménez trong thi ca hiện đại là cuộc vận động của ông về khái niệm "thơ thuần khiết" Pháp ( pure poetry ) .
Tiểu sử .
Juan Ramón Jiménez được sinh ra ở Moguer, gần Huelva, Andalucia, ngày 23 tháng 12 năm 1881. Ông học luật tại Đại học Seville, nhưng ông từ chối sử dụng luật trong sự nghiệp của mình . Ông đã xuất bản hai cuốn sách đầu tiên ở tuổi 18, năm 1900. Cái chết của cha ông năm đó khiến ông lâm vào khủng hoảng , và kết quả là Juan mắc bệnh trầm cảm , do vậy ông được gửi sang Pháp để điều trị . Chính tại nơi này Juan Ramón Jiménez đã có một mối quan hệ tình cảm với vợ bác sĩ của ông , và sau đó được chuyển đến viện điều dưỡng ở Madrid thuộc dòng một nữ tu , từ 1901 đến 1903. Năm 1911 và 1912, ông đã viết nhiều bài thơ gợi tình miêu tả sự dan díu với nhiều phụ nữ địa phương . Một vài người trong số họ bị ám chỉ có quan hệ tình dục liên quan đến dòng nữ tu là những sơ y tá . Cuối cùng Mẹ bề trên dòng nữ tu phát hiện ra các hoạt động này và trục xuất ông , mặc dù có thể sẽ không bao giờ biết được các dữ liệu miêu tả quan hệ tình dục với các sơ y tá của ông là sự thật hay do trí tưởng tượng.
Các đối tượng chính trong nhiều bài thơ khác của ông là âm nhạc và màu sắc, trong đó, nhiều lần, ông đã từng so sánh với tình yêu hay lòng ham muốn nhục dục . Juan Ramón Jiménez ca tụng quê nhà trong tác phẩm thơ - văn xuôi " Platero y Yo "(1914) kể về một nhà văn và chú lừa Platero . Năm 1916, ông và nhà văn kiêm thi sĩ nữ gốcTây Ban Nha Zenobia Camprubí kết hôn ở Hoa Kỳ. Zenobia đã trở thành bạn đồng hành không thể thiếu của ông và cộng tác viên hết sức tích cực .Khi cuộc nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ , Juan và Zenobia đã sống lưu vong ở Cuba, Hoa Kỳ, và Puerto Rico, nơi ông định cư vào năm 1946.
Jiménez đã từng phải nhập viện trong tám tháng do chứng suy sụp tinh thần. Sau đó, ông trở thành giáo sư ngôn ngữ và văn học Tây Ban Nha tại Đại học Maryland, College Park. Trường đại học này sau đó đặt tên ông cho một tòa nhà trong khuôn viên trường để vinh danh ông. Juan cũng là giáo sư văn chương tại Đại học Miami, ở Coral Gables, Florida. Trong thời gian sống ở Coral Gables, ông đã viết: tác phẩm "Romances de Coral Gables".
Năm 1956, ông được vinh dự nhận giải Nobel Văn học . Ba ngày sau , Zenobia Camprubí vợ ông qua đời vì ung thư buồng trứng. Juan Ramón Jiménez không bao giờ vượt qua được nỗi mất mát quá lớn này, và ông đã chết hai năm sau đó, vào ngày 29 tháng năm 1958, trong cùng một bệnh viện nơi vợ ông đã qua đời . Cả hai người đều được đưa về chôn cất ở Tây Ban Nha.
Hospital Psiquiátrico de Hato Tejas, 1957 |
Mặc dù Jiménez chủ yếu là một nhà thơ, nhưng tác phẩm văn xuôi " Platero y yo " (1917- "Platero và tôi") cũng được bán chạy ở Châu Mỹ La Tinh, và bản dịch tác phẩm của ông đã rất phổ biến ở Mỹ. Ông cũng cộng tác với Zenobia trong bản dịch tác phẩm "Riders to the Sea " của nhà viết kịch Ireland John Millington Synge (1920).
Di sản của ông về thi ca rất lớn . Trong số các tác phẩm của ông được biết đến là Sonetos espirituales 1914-1916 (1916; "Spiritual sonnet, 1914-15), Piedra y Cielo (1919;" Stones and Sky "), Poesia, en verso, 1917-1923 (1923), Poesia en prosa y verso (1932, "Thi ca trong văn xuôi và Đoản thi "), Voces de mi copla (1945, "Voices of My Song"), và Animal de fondo (1947, "Animal at Bottom"). Một bộ sưu tập 300 bài thơ (1903-1953) với bản dịch tiếng Anh của Eloise Roach cũng đã được xuất bản vào năm 1962.
Ảnh hưởng văn chương của Juan Ramon Jimene đối với các nhà văn Puerto Rico rất mạnh mẽ đánh dấu bằng những tác phẩm của Giannina Braschi, René Marqués, và Manuel Ramos Otero. Thư viện tại cơ sở chính của trường Đại học Puerto Rico ở Río Piedras mô tả các hoạt động của "Sala Juan Ramón y Zenobia", gồm một bộ sưu tập của nhiều đồ dùng cá nhân và thư viện cá nhân Jiménez, cũng như của vợ ông Zenobia Camprubí . Một câu nói trich dẫn của Jimenez " Nếu người ta cho bạn một tờ giấy kẻ sẵn , hãy viết bằng một cách khác " ( "If they give you ruled paper, write the other way")
Tham chiếu
de Albornoz, Aurora, ed. 1980. Juan Ramón Jiménez. Madrid: Taurus.
Blasco, F. J. 1982. La Poética de Juan Ramón Jiménez. Desarrollo, contexto y sistema. Salamanca.
Campoamor González, Antonio. 1976. Vida y poesía de Juan Ramón Jiménez. Madrid: Sedmay.
Campoamor González, Antonio. 1982. Bibliografía general de Juan Ramón Jiménez. Madrid: Taurus.
El Cultural. 14 Jun 2007. Los poemas eróticos de Juan Ramon Jiménez. Aparece Libros de amor. Conoce los poemas del JRJ más lujurioso
Diario de Córdoba. 6 Jan 2007. ´Libros de amor´ descubre a un Juan Ramón Jiménez erótico
Díez-Canedo, E. 1944. Juan Ramón Jiménez en su obra. México City.
Guardian (London). 19 Jun 2007. My sex in the convent - by Nobel poet
Font, María T. 1973. Espacio: autobiografía lírica de Juan Ramón Jiménez. Madrid.
Guerrero Ruiz, J . 1961. Juan Ramón de viva voz. Madrid.
Gullón, R. 1958. Conversaciones con Juan Ramón Jiménez. Madrid.
Jensen, Julio, 2012, The Poetry of Juan Ramón Jiménez. An Example of Modern Subjectivity. Copenhagen.
Juliá, M. 1989. El universo de Juan Ramón Jiménez. Madrid.
Olson, P.R. 1967. Circle of Paradox: time and essence in the poetry of Juan Ramon Jimenez. Baltimore.
Palau de Nemes, G. 1974. Vida y obra de Juan Ramón Jiménez. 2/e. 2 v. Madrid: Gredos.
Predmore, Michael P. 1966. La obra en prosa de Juan Ramón Jiménez. Madrid: Gredos.
Salgado, M. A. 1968. El arte polifacético de las caricaturas líricas juanramonianas. Madrid.
External links
Works by Juan Ramón Jiménez at Project Gutenberg
Fundacion Casa-Museo Zenobia y Juan Ramón Jiménez.
Juan Ramón Jiménez on Find-A-Grave
Nobel Prize Acceptance Speech
Theo Wikipedia :
http://en.wikipedia.org/wiki/Juan_Ramón_Jiménez
Trần hồng Cơ
Dịch và tham khảo .
-------------------------------------------------------------------------------------------
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .
Chuyện tình – Love story
ERICH SEGAL .
ERICH SEGAL .
Giới thiệu .
Theatrical release poster
Đạo diễn Arthur Hiller
Sản xuất Howard G. Minsky
Kịch bản Erich Segal
Diễn viên Ali MacGraw
Ryan O'Neal
John Marley
Ray Milland
Âm nhạc Francis Lai
Quay phim Richard C. Kratina
Dựng phim Robert C. Jones
Studio Love Story Company
Paramount Pictures
Phát hành Paramount Pictures
Công chiếu 16 tháng 12 năm 1970
Thời lượng 99 minutes
Quốc gia Mỹ
Ngôn ngữ tiếng Anh
Kinh phí $2.2 million
Doanh thu $106,397,186[1]
***********************************************************************************
Chuyện tình - tên gốc tiếng Anh: Love Story, là phim tình cảm lãng man, công chiếu năm 1970, do Erich Segal viết kịch bản; sau đó chính ông phát triển thành tiểu thuyết cùng tên. Phim do Arthur Hiller làm đạo diễn.
Truyện phim .
Phim kể câu chuyện về Oliver Barrett IV, một sinh viên Đại học Harvard, xuất thân từ gia đình danh giá, giàu có. Tại thư viện của trường Radcliffe (một đại học trực thuộc Harvard, dành riêng cho nữ sinh viên) Oliver gặp và sau đó yêu Jennifer Cavilleri, một sinh viên Radcliffe lém lỉnh, xuất thân từ gia đình lao động. Sau khi tốt nghiệp, hai người kết hôn, bất chấp sự chống đối từ cha của Oliver.
Không có trợ giúp tài chính của gia đình, đôi vợ chồng trẻ rất vất vả mưu sinh để trang trải học phí cho Olivier học tiếp cao học tại trường Luật Harvard. Jennifer dạy trẻ tại một trường tư, vợ chồng thuê phòng trọ, trên tầng cao nhất của một ngôi nhả gẩn trường Harvard, để ở. Sau khi tốt nghiệp hạng 3, Olivier vào làm việc trong 1 công ty Luật tại thành phố New York. Với thu nhập cao của Olivier, đôi vợ chồng trẻ quyết định có con. Sau khi ý định này thất bại, họ tìm đến một chuyên gia nhờ tư vấn. Chuyên gia này báo riêng Olivier biết: Jennifer mắc bệnh hoại huyết và không còn sống bao lâu nữa. Tuy Olivier cố giấu, nhưng cuối cùng Jennifer cũng biết bệnh của mình. Do chi phí điều trị rất tốn kém, thiếu tiền Olivier buộc phải đến gặp cha mượn tiền, hầu có thể kéo dài mạng sống vợ mình.
Cuối cùng Jennifer ra đi, trước khi nhắm mắt nàng bảo Oliver: Không nên tụ dằn vặt mình và ôm chặt lấy nàng. Không kiềm được nước mắt, Olivier rời bệnh viện, đúng lúc cha của Olivier vừa biết tin vội vào thăm. Ông xin lỗi về đối xử không phải với Olivier thời gian qua. Anh chỉ nói: Love means never having to say you're sorry (câu Jennifer đã nói với anh trong một lần vợ chồng giận nhau), rồi bật khóc .
Phân vai .
Ali MacGraw : Jennifer "Jenny" Cavilleri-Barrett
Ryan O'Neal : Oliver Barrett IV
John Marley : Phil Cavilleri
Ray Milland : Oliver Barrett III
Russell Nype : Dean Thompson
Katharine Balfour : Mrs. Barrett (as Katherine Balfour)
Sydney Walker : Dr. Shapely
Robert Modica : Dr. Addison
Walker Daniels : Ray Stratton
Tommy Lee Jones : Hank Simpson (as Tom Lee Jones)
John Merensky : Steve
Andrew Duncan : Reverend Blaufelt
Sản xuất .
Đầu tiên Erich Segal viết kịch bản phim bán cho Paramount Pictures. Hãng phim này yêu cầu Segal phát triển kịch bản thành tiểu thuyết nhằm giúp công chúng biết trước về truyện phim; trước khi công chiếu phim . Cuôn tiểu thuyết sau khi phát hành lập tức trở thành quyển sách bán chạy nhất (bestseller), tạo thành công lớn cho phim khi trình chiếu vào ngày Lễ Tình nhân (Valentine's Day). Phim đạt doanh thu $106,397,186, cao nhất trong năm 1970
Bài hát chính của phim Where Do I Begin? (hay Love Story) do Francis Lai sáng tác, cũng đạt thành công lớn, một phần nhờ vào giọng hát trầm buồn, trữ tình đầy lãng mạn của Andy Williams.
Câu trích .
Có hai câu thoại trong phim đã đi vào văn hóa của giới trí thức trẻ thế giới:
What can you say about a twenty-five-year-old girl who died? That she was beautiful and brilliant. That she loved Mozart and Bach. The Beatles. And me. - Bạn có thể nói gì về một cô gái 25 tuổi, vừa qua đời?. Rằng nàng đẹp, thông minh. Rằng nàng thích nhạc của Mozart và Bach. Thích nhạc của The Beatles. Và nàng yêu tôi.
Love means never having to say you're sorry. - Yêu là không bao giờ nói: Tôi xin lỗi.
Giải thưởng .
Chuyện tình được đề cử 7 giải Ócar năm 1970, nhưng chỉ đoạt 1 giải: Best Music, Original Score - Nhạc phim gốc hay nhất.
Tuy nhiên phim đoạt 5 giải Quả cầu vàng Golden Globe Awards, bao gồm:
Best Drama Motion Picture
Best Director cho Arthur Hiller.
Best Actress cho Ali MacGraw.
Best Music cho Francis Lai.
his screenplay cho Erich Segal.
Phim được xếp thứ 9 trong Danh sách 100 phim tình cảm hay nhất của điện ảnh Mỹ (AFI's 100 Years…100 Passions list).
Tham khảo
http://vi.wikipedia.org/wiki/Chuyện_tình
-------------------------------------------------------------------------------------------
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .
TÌNH TOA’N HỌC .
Dưới đây là bộ sưu tập các bài thơ TÌNH TOÁN HỌC , mời các bạn xem qua :
Bài thơ số 1
Anh tìm em trên vòng tròn lượng giác,
Nét diễm kiều trong tọa độ không gian.
Đôi trái tim theo nhịp độ tuần hoàn,
Còn tất cả chỉ theo chiều hư ảo.
Bao mơ ưóc, phải chi là nghịch đảo,
Bóng thời gian, quy chiếu xuống giản đồ.
Nghiệm số tìm, giờ chỉ có hư vô,
Đường hội tụ, hay phân kỳ giải tích.
Anh chờ đợi một lời em giải thích,
Qua môi trường có vòng chuẩn chính phương.
Hệ số đo cường độ của tình thương,
Định lý đảo, tìm ra vì giao hoán.
Nếu mai đây tương quan thành gián đoạn,
Tính không ra phương chính của cấp thang.
Anh ra đi theo hàm số ẩn tàng,
Em trọn vẹn thành phương trình vô nghiệm
Bài thơ số 2
"Phương trình" nào đưa ta về chung lối
"Định lý" nào sao vẫn mãi ngăn đôi
"Biến số" yêu nên tình mãi hai nơi
Điểm "vô cực" làm sao ta gặp được
"Đạo hàm" kia nào có đâu nghiệm trước
Để "lũy thừa" chẳng gom lại tình thơ
"Gia tốc" kia chưa đủ vẫn phải chờ
"Đường giao tiếp" may ra còn gặp gỡ
Nhưng em ơi! "Góc độ" yêu quá nhỏ !
Nên vẫn hoài không chứa đủ tình ta
Tại "nghịch biến" cho tình mãi chia xa
"Giới hạn" chi cho tình yêu đóng khép
"Lục lăng" kia cạnh nhiều nhưng rất đẹp
Tại tình là "tâm điểm" chứa bên trong
Nên "đường quanh" vẫn mãi chạy lòng vòng
Điểm " hội tụ" vẫn hoài không với tới
Em cũng biết "tung, hoành" chia hai lối
Để tình là những đường thẳng "song song"
Điểm gặp nhau "vô cực" chỉ hoài công
Đường "nghịch số" thôi đành chia hai ngả
Bài thơ số 3
Anh đau đớn nhìn em qua quỹ tích
Tình em nào cố định ở nơi đâu
Anh tìm em khắp diện tích địa cầu
Nhưng căn số đời anh đành cô độc
Để anh về vô cực dệt duyên mơ
Cho không gian trọn kiếp sống hững hờ
Chiều biến thiên là những cơn mơ.
Đường biễu diễn là chuỗi ngày chán nản
Em sung sướng trên đường tròn duyên dáng
Anh u sầu trên hệ thống x-y
Biết bao giờ đôi ta được phụ kề
Anh đành chết trên đường tiếp cận
Ôi anh chết cũng vì hệ số
Định đời anh trong biểu thức khổ đau
Như cạnh góc vuông , với cạnh huyền
Gần nhau đấy nhưng không trùng hợp
Qua những điều trên ta quy ước
Tình yêu là 1 cái compa
Vòng tròn nào dù nhỏ dù to
Cũng đều có tâm và bán kính
Tâm ở đây là tâm hồn cố định
Bán kính là nỗi nhớ niềm thương
Bài thơ số 4
Ta gặp nhau qua phương trình thể tích
Ánh mắt buồn những chẳng kém thiết tha
Góc độ nào mà tính mãi không ra
Hay "nghịch biến " cho lòng hoài xa cách
Đời "nghịch số " nên em không oán trách
"Giới hạn " lòng cho sầu khổ vơi đi
"Định lý" nào mà ngăn được bờ mi
Không rơi rớt hạt châu buồn hận tủi
"Tâm điểm " kia chứa chút tình ngắn ngủi
Nên đau buồn là "hệ luận "trần gian
Tình yêu em dù chứa đựng ngút ngàn
Nhưng "vô cực" là niềm đau "Bất biến"
Ân tình anh dù luôn luôn "biểu hiện"
Nhưng đường đời mình hai kẻ "song song"
Yêu thương chi chỉ là những hoài công
Nên "ẩn số " tình yêu không "tụ điểm"
Bài thơ số 5
Tình đâu là căn thức bậc hai
Ðế có thể ngồi yên mà xét dấu
Em phải nhớ tình yêu là góc số
Mà hai ta là những kẻ chứng minh
Ðừng bao giờ đảo vế một phương trình
Cứ thong thả mà vui trên đồ thị
Tìm đạo hàm rồi ngồi yên suy nghĩ
Sẽ thấy dần hệ số góc tình yêu
Ðừng vội vàng định hướng một hai chiều
Rồi một buổi ta đồng qui tại góc
Em mỉm cười như tiếp tuyến bên tôi
Tôi vội vàng phân tích nét hoa tươi
Và nhận thấy em xinh xinh cực đại
Em khó hiểu thì tôi đành khó giải
Bài toán nào bằng phương pháp tương giao
Nhìn em cười tôi định nghĩa tình yêu
Nhưng chỉ gặp một phương trình vô nghiệm
Chưa hẹn hò mà lòng như bất biến
Chưa thân nhau mà đã thấy so le
Trót yêu rồi công thức có cần chi
Vì hệ luận ái tình không ẩn số
Em không nói tôi càng tăng tốc độ
Ðể mình tôi trên quãng đường đơn điệu.
Yêu là chết là triệt tiêu tất cả
Tình tiệm cận riêng mình tôi buồn quá
Nỗi cô đơn không giới hạn ngày mai
Tôi mang em đặt điều kiện tương lai
Cho tôi sống với nỗi niềm đơn giản
Bài thơ số 6
Tôi và em tính tình hơi đồng dạng
Sống bên nhau chắc tỉ số cân bằng
Tôi xin thề không biện luận cao xa
Mà chỉ lấy định đề ra áp dụng
Tôi có thể chứng minh là rất đúng
Vì tình tôi như hàng điểm điều hòa
Nếu bình phương tôi lại rút căn ra
Cũng chẳng khác những điều trong quĩ tích
Tôi yêu em với một tình yêu cố định
Tìm chu kỳ cho hàm số tuần hoàn
Dùng định lý thay ngàn câu ước hẹn
Xuống lũy thừa thay vạn lá thư duyên
Giải đạo hàm mong tiếp xúc cùng em
Tìm toạ độ trong tình yêu toán học
Bài thơ số 7
Bởi đôi ta không cùng chung "tiệm cận"
Nên suốt đời mang hai "cực âm dương"
"Biến số "nào chia hai đứa hai đường
Nên tình mãi "song song " không "tụ điểm"
Bởi tình yêu nay hoá thành "vô nghiệm"
Dù tình em "giới hạn" một mà thôi
Nhưng cuộc đời "tung hoành" chia hai lối
Đễ âm thầm mang nỗi nhớ thương vơi
"Vô cực "kia là nẻo xa vời vợi
Nên tình mình thành "định lý" phân ly
Trách làm chi khi "Xác suất định kỳ"
Đã sai lệch nên đường tình lạc bến
Em biết anh không xa vòng "Tịnh tiến"
Để mong chờ "hàm sô' kết tình ta
Nhưng nỗi buồn vẫn càng hoài "tiếp diễn"
Nên ân tình đành "nghịch biến " chia xa ...
Bài thơ số 8
Có phải anh từ "không gian" xuất hiện
Để mang tình "bất biến " đến gởi trao
Hay anh từ "tâm vòng tròn" "Quỹ đạo"
Mang lạc loài vào "hệ luận " trần gian
Em nơi đây mang khắc khoải ngút ngàn
Tìm "ẩn số " tâm hồn anh chất chứa
"Mặt phẳng "kia êm đềm như lời hứa
Hay chỉ là "Ảo số "giấc mơ hoang
Đường anh đi không phải "Đường nằm ngang"
Để hai "điểm " nối nhau thành gần nhất
"Hệ luận" trần gian phải chăng không chân thật
Nên muôn đời "công thức" chẳng tròn mơ
Tình đôi ta không cùng chung "lời giải"
Nên bây giờ "Căn sô' phải lìa xa
Và đời mình không "hàng điễm điều hoà"
Cho duyên kiếp không cùng chung "giao điểm "
Nên tình yêu nay trở thành "vô nghiệm"
Và lòng mình hết "dao động" yêu đương
"Nhiệt độ" nay thôi đã hết vấn vương
Khi "khối lượng " tình sầu đang giăng kín
Bài thơ số 9
Có một lần thầy dạy toán làm thơ
Bài thơ ấy bây giờ đang dang dở
Nhưng câu thơ ý tình bỡ ngỡ
Còn khô khan như môn toán của thầy
Trong bài thơ thầy cộng gió với mây
Bằng công thứ tính Cô tang của góc
Lá thu rơi bay vào trong lớp học
Thầy bảo rằng "lá có lực hướng tâm"
Rồi một lần mưa nhè nhẹ bâng khuâng
Thầy ngẫu hứng đọc câu thơ thầy viết
"Gọi mưa rơi dọc ngang bất chợt
Radian của cầu vòng là một số pi"...
(Sưu tầm)
Bài thơ số 10
Anh đau đớn tìm em trên quỹ tích
Để định chiều di chuyển của đôi ta
Nhưng tim em cố định một nơi xa
Nên chẳng biết tìm đâu ra giới hạn
Cho hệ thức đời anh không lẻ bạn
Được cùng em khảo sát mộng tương lai
Ta song song đồng tiến tới ngày mai
Ôi sung sướng bên tình yêu vô định
Nhưng nào biết tình yêu em biến nghịch
Anh và em ngăn cách số âm dương
Cho không gian trọn kiếp sống ngàn phương
Thì định nghĩa tình yêu là đau khổ
Ôi tan vỡ cũng chỉ vì hệ số
Phải cam đành ứng dụng một đôi câu
Cho tim anh nghiệm chứng mối tình đầu
Và tìm bóng hình em nơi vô cực
Theo giả thuyết tình ta không đẳng thức
Kết luận rằng hai đứa phải xa nhau
Căn delta không thể tính được đâu
Thôi vĩnh biệt, em yêu xin vĩnh biệt !
Vì mục tiêu giáo dục phi lợi nhuận , xin các tác giả cho phép được đăng lại các tư liệu trên trang này .
Trân trọng cám ơn .
Nguồn : http://blog.yume.vn/xem-blog/tho-vui-toan-hoc.nhu_hong.35CDB2C2.html
http://thpt-vinhdinh-quangtri.edu.vn/4rum/viewtopic.php?f=106&t=14
-------------------------------------------------------------------------------------------
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .
CUỘC ĐỜI CỦA PI .
TT - Ðã có không ít bộ phim chuyển thể từ các tác phẩm đoạt giải Man Booker giành các giải thưởng điện ảnh uy tín. Bộ phim mới nhất của Lý An Life of Pi trở thành cái tên tiếp theo trong danh sách đáng ngưỡng mộ này với 11 đề cử cho giải Oscar.
Chuyển thể từ các tác phẩm văn học đoạt giải Man Booker như The English patient (Michael Ondaatje), The remains of the day (Kazuo Ishiguro), Atonement (Ian McEwan)..., các tác phẩm điện ảnh đều ít nhiều thu hút được sự chú ý. Nay, lại một "bộ phim Booker" khác, lại những lời khen ngợi từ giới phê bình, hẳn vậy. Tuy nhiên, số phận của Life of Pi (tác giả Yann Martel) hoàn toàn khác với các "anh em" Booker trước đó.
Khi chuyển thể những cuốn sách đoạt giải thưởng văn học danh giá này, có lẽ các nhà làm phim không dám kỳ vọng quá nhiều vào doanh thu. Trong khi đó, Life of Pi là sản phẩm đã được xác định phải trở thành một bộ phim bom tấn của Hollywood.
Hành trình huyền thoại
Không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều đạo diễn ban đầu hăm hở muốn thực hiện Life of Pi, nhưng chẳng bao lâu sau đành ngậm ngùi từ bỏ. Cuối cùng, chỉ Lý An mới đủ dũng cảm để ở lại cùng cậu bé Pi và chú hổ Richard Parker giữa đại dương xanh thẳm, đầy hứa hẹn mà cũng đầy bất trắc của một dự án phim táo bạo. Trên vai người đạo diễn gốc Ðài Loan này giờ có cả hai gánh nặng: Làm sao để giữ nguyên được tính triết lý, tinh thần trong cuốn sách của Yann Martel mà vẫn đảm bảo dự án điện ảnh đắt đỏ này có lãi? Và trong tình thế ấy, nhà làm phim buộc phải lựa chọn giữa việc giữ, bớt và thêm những tình tiết từ cuốn sách.
Hành trình lênh đênh trên biển mà cậu bé Pi trong cuốn sách của Yann Martel phải trải qua khiến độc giả nhớ tới nhiều tác phẩm văn học vĩ đại khác. Không khác gì hành trình của Odysseus hay Ðức Phật, Pi phải đối diện với những thử thách ở cả hai mặt thể xác lẫn tinh thần, đi từ hạnh phúc đến bi kịch, hi vọng sang tuyệt vọng, kiên trì với niềm tin, phủ nhận chính niềm tin ấy và cuối cùng đến được bến bờ. Hơn hết, một cuốn sách như Life of Pi sẽ không có chỗ cho những ai không tin vào huyền thoại và những điều vĩ đại của tự nhiên và bản thể con người.
Ðó là điều Lý An đã cố gắng giữ lại và thậm chí còn đẩy lên một tầm cao mới trong bộ phim chuyển thể của mình. Hành trình của Pi là hành trình huyền thoại từ trong ra ngoài. Có không ít người hâm mộ cuốn sách đã nhận xét hình ảnh trong bộ phim quá lung linh, quá nuột nà so với hình dung của họ về Life of Pi. Và dù ai cũng phải công nhận hiệu ứng 3D và chất lượng hình ảnh trong phim là đáng kinh ngạc, phản ứng của các nhà phê bình trước việc "thiên đường hóa" bối cảnh bi kịch của vị đạo diễn này cũng không hẳn là đồng nhất.
Nhà phê bình Matt Mueller của trang tạp chí Totalfilm cho bộ phim điểm tuyệt đối năm sao và ca ngợi những cảnh quay mượt mà, lung linh ấy đầu tiên. Trong khi đó, cây bút A. O. Scott của New York Times cho rằng những cảnh quay quá đẹp dường như mâu thuẫn với nội dung có phần u tối của bộ phim.
Giảm "tông" vì số đông
Một yếu tố khác khiến không ít người yêu mến tác phẩm văn học hụt hẫng khi xem tác phẩm chuyển thể chính là sự "tránh né" các tình tiết táo bạo trong phim. Life of Pi được đóng nhãn PG (khuyến cáo một số cảnh không thích hợp với trẻ em). Ðây có thể xem là một mức giới hạn tương đối thoáng, cho phép bộ phim đến với số lượng đông đảo khán giả - điều bảo đảm cho doanh thu của một bộ phim kinh phí cao. Chính vì vậy, người xem có thể thấy những gì mà cậu bé Pi phải chịu đựng trên màn ảnh không còn khốc liệt như trong cuốn sách của Yann Martel. Ðoạn những con thú lên được chiếc xuồng cứu hộ cùng Pi (ẩn dụ cho phiên bản câu chuyện khác mà đến cuối phim cậu bé sẽ tiết lộ) ăn thịt lẫn nhau cũng vì thế bị cắt đến mức tối đa. Ðặc biệt khi cảnh tượng cậu bé phải làm thịt những con cá để sinh tồn - hành động phạm đến quan điểm đạo đức của một cậu bé ăn chay suốt thời thơ ấu - cũng không còn quá ấn tượng, quá day dứt nữa.
Không chỉ thế, nhiều độc giả cũng bày tỏ sự thất vọng khi thấy Lý An đã bỏ đi một chi tiết quan trọng trong sách. Khi cậu bé đã đi tới tận cùng tuyệt vọng, mắt không còn nhìn thấy gì do ở quá lâu trên biển, một người Pháp bí ẩn đã bước lên xuồng để rồi trở thành mồi cho chú hổ. Chi tiết ấy đã làm nổi bật lên biểu tượng về bản thể con người trong cuốn sách. Ðáng tiếc thay, có lẽ các nhà làm phim cho rằng việc một nhân vật bí ẩn, mơ hồ xuất hiện sẽ làm loãng đi hình ảnh của chú hổ và Pi, khiến đa số người xem (những người chưa đọc sách) khó hiểu nên quyết định bỏ bớt. Chiều sâu ý nghĩa của phim vì thế cũng bị vơi bớt ít nhiều.
Thế nhưng dù đã phải giảm "tông" để làm vừa lòng số đông người xem, Lý An vẫn có thể đầy tự hào vì thành quả công việc của mình. Life of Pi là một cuốn sách không dễ dựng thành phim, vì sự chồng chất của ngữ nghĩa trong tác phẩm cũng như những yêu cầu cao về kỹ thuật. Lý An đã giữ lại được phần lớn cốt truyện và thông điệp triết học mà Yann muốn chuyển tải, biến Life of Pi từ một tác phẩm đẫm chất bi thảm thành một tác phẩm lý tưởng hơn, huyền ảo hơn qua hình ảnh. Có thể điều ấy khiến nhiều người không hài lòng, nhưng không ai có thể phủ nhận được bộ phim của Lý An "đẹp" và đủ hấp dẫn để khán giả phải ngồi lại tới phút cuối cùng.
Ðại dương, thú dữ và trẻ em
Chúng ta hãy thử so sánh bộ phim Life of Pi của Lý An và một tác phẩm chuyển thể ấn tượng khác với bảy đề cử Oscar - Atonement.
Bộ phim năm 2007 của đạo diễn Joe Wright quy tụ dàn diễn viên đắt giá bao gồm cả cô đào Keira Knightly. Dẫu vậy, tổng chi phí sản xuất của Atonement chỉ là 30 triệu USD. Sau đó, nhờ cả chất lượng và danh tiếng từ các giải thưởng, tác phẩm đạt doanh thu tới gần 130 triệu USD, một con số tương đối ngoạn mục so với vốn đầu tư.
Tuy nhiên, con số doanh thu của Atonement chỉ tương đương kinh phí của phim Life of Pi - bộ phim hội tụ cả ba yếu tố mà mọi nhà làm phim đều "sợ": đại dương, thú dữ và trẻ em. Việc làm ra một bộ phim liên quan đến đại dương luôn đắt đỏ, đó là chưa kể chi phí để tạo ra một chú hổ 3D sao cho thật thuyết phục cũng chẳng hề khiêm tốn. Ðó là chưa kể câu chuyện từ một cuốn sách đoạt giải Booker không bao giờ là dễ hiểu, đơn giản với đa số người xem, kể cả khi đó là cuốn sách bán chạy nhất trong lịch sử giải thưởng này.
PHƯƠNG THỦY
Nguồn : http://tuoitre.vn/Van-hoa-Giai-tri/Dien-anh/531071/ly-an-vuot-qua-ba-noi-so.html
* Tóm tắt :
Life of Pi kể về câu chuyện của cậu bé Piscine hay còn gọi là Pi. Sau khi con tàu chở cả gia đình cậu gặp nạn giữa đại dương, Pi may mắn sống sót cùng bốn con vật thuộc vườn thú mà nhà cậu từng sở hữu. Những con vật dần giết hại lẫn nhau và cuối cùng chỉ còn lại một chú hổ Bengal có tên Richard Parker. Một con người bé nhỏ và một mãnh thú nhưng chỉ có một chiếc xuồng cứu hộ, Pi đã phải tìm cách tồn tại khi lênh đênh trên mặt biển và đối phó với người bạn đồng hành có một không hai này. Cuốn sách đã được dịch ra tiếng Việt với tên Cuộc đời của Pi (dịch giả Trịnh Lữ).
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------
Cuộc đời của Pi
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bìa Cuộc đời của Pi bản tiếng Việt
Tác giả Yann Martel
Tựa gốc Life of Pi
Quốc gia Canada
Ngôn ngữ tiếng Anh
Thể loại Tiểu thuyết
Nhà xuất bản Knopf Canada (bản tiếng Anh) / Nhà xuất bản Văn học (bản tiếng Việt)
Ngày phát hành tháng 9 năm 2001
Số trang 550 trang (tiếng Việt)
ISBN ISBN 0-676-97376-0 (in lần đầu, bìa cứng), ISBN 0-15-602732-1 (bản Mỹ bìa mềm) ISBN 1-565-11780-8 (sách nói, Penguin Highbridge)
Cuốn trước Self
Cuốn sau We Ate the Children Last
Bản tiếng Việt
Người dịch Trịnh Lữ
Cuộc đời của Pi (tiếng Anh: Life of Pi) là một tiểu thuyết của nhà văn người Canada Yann Martel, được xuất bản năm 2001 bởi nhà xuất bản Knopf Canada. Năm 2002, cuốn sách giúp tác giả giành được giải Man Booker. Năm 2003, văn bản tiếng Anh, Life of Pi, được chọn cho giải Canada Reads và văn bản tiếng Pháp, L'Histoire de Pi, được chọn cho giải Le combat des livres; cả hai giải là của CBC Radio.
Nội dung
Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
Nhân vật chính của tác phẩm là cậu bé Piscine Molitor Patel, sau đó, cậu tự gọi mình là Pi. Pi là con trai của một chủ vườn thú tại vùng Pondicherry của Ấn Độ. Cậu say mê tôn giáo và cùng một lúc theo cả đạo Hindu, đạo Hồi và đạo Thiên Chúa. Để tránh những biến cố chính trị, gia đình cậu chuyển toàn bộ vườn thú tới Canada trên một con tàu của người Nhật Bản. Con tàu đã gặp một cơn bão lớn và Pi lạc mất gia đình mình, cậu sống sót trên chiếc thuyền cứu hộ cùng một con hổ Bengal có tên Richard Parker, một con linh cẩu và một con đười ươi và một con ngựa vằn. Cuối cùng, chỉ còn lại con hổ và cậu lênh đênh trên biển. Sử dụng những hiểu biết về nuôi dưỡng thú hoang, Pi đã duy trì sự sống của cả cậu và Richard Parker cho tới khi cả hai dạt lên một bờ biển.
Hết phần cho biết trước nội dung.
Bản dịch tiếng Việt
Cuộc đời của Pi được xuất bản tại Việt Nam năm 2004 bởi công ty Nhã Nam. Bản tiếng Việt do dịch giả Trịnh Lữ chuyển ngữ. Cuộc đời của Pi được trao giải thưởng dành cho văn học dịch của Hội nhà văn Hà Nội năm 2004.
Phim chuyển thể
Tiểu thuyết được Mỹ chuyển thể thành phim, do Lý An đạo diễn, Suraj Sharma đóng vai chính, ngoài ra có sự tham gia của Shravanthi Sainath,Tabu (diễn viên Ấn Độ), Adil Hussain, Irrfan Khan (diễn viên Ấn Độ), Gérard Depardieu (Pháp), Rafe Spall (Anh), đầu tư 120 triệu USD dự kiến công chiếu 21. 11. 2012.
Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/Cuộc_đời_của_Pi
http://www.loidich.com/library/download.php?id=1498
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
http://vuaphim.net/phim-online-cuoc-doi-cua-pi-tap-Full-server-80-407777.html
Xuân Ý .
( Đây là bài thơ tôi làm theo Hán ngữ , tạm dịch như sau :
Mùa xuân , giấc mộng , cung đàn , thi ca và rượu nồng .
Có quá khứ và tương lai ta mới biết ai là bằng hữu .
Mùa xuân quay về , ta lại gặp người xưa .
Mặt trời và mặt trăng cùng hòa trong nhịp điệu hoan lạc . )
Xuân,Mộng,Đàn,Thơ,Rượu
Bạn hữu theo tháng năm
Xuân về ta gặp lại ,
Ngày sáng với trăng rằm
Xuân,Mộng,Cầm,Thi,Tửu
Khứ lai tri bằng hữu
Xuân đáo kiến cố nhân ,
Nhật nguyệt giai lạc vũ
Chào xuân mới .
Trần hồng Cơ .
28/01/2013
Cảm tác khi đọc bài Mơ Xuân
Nguồn : http://pnguyencuong.blogspot.com/2013/01/mo-xuan.html
Xuân họp mặt .
Lắng nghe mùa xuân về .
Phút giao thừa lặng lẽ .
Thì thầm mùa xuân .
Cám ơn một đóa xuân ngời .
Xuân họp mặt .
Xuân và tuổi trẻ .
Hoa cỏ mùa xuân .
Bấm vào tranh về đầu trang.
**
**
Trầm Tưởng - Kahlil Gibran . (V)
*******************************************
nguồn: vietmessenger
Đăng Quang dịch
Lời dịch giả
Trầm tưởng sưu tập những dòng tư tưởng và phút giây trầm mặc của nhà thi sĩ và tiên tri Kahlil Gibran, người gốc Liban, nguuyên tác Ả-rập ngữ, được chọn và dịch bởi Anthony R. Ferris dưới nhan đề Thoughts and Meditation (The Citadel Press, New York, tái bản lần thứ tư, 1969). Bản dịch sang Việt ngữ này đã dựa vào bản Anh dịch nói trên, ngoại trừ truyện ngắn "Martha" đã được so với bản Anh dịch của H. M. Nahmad, trong cuốn nhan đề Nymphs of the Valley của Gibran (Alfred A. Knopf. Inc. New York, tái bản lần thứ mười ba, 1969).
Đăng Quang
*******************************************
Các bạn thân mến ,
Có những lúc chúng ta cảm thấy sự cô đơn và trống trải trong cuộc đời đầy sóng gió , sự bất an và khắc khoải về tương lai của kiếp người vừa hạnh phúc lẫn khổ đau . Chúng ta sẽ có lúc đối diện với dòng tư tưởng phản hồi của chính mình và tự đặt ra nhiều câu hỏi , tại sao ? như thế nào ? ở đâu ? do đâu ?... ta sẽ làm gì để tìm thấy đáp ứng cho những câu hỏi đó .
Trầm tưởng mà Kahlil Gibran để lại sẽ cho chúng ta những hương vị ngọt ngào , cảm xúc của sự thanh thản và bình dị .
Chúng ta bỗng thấy cuộc đời đầy ý nghĩa và cả sự vô nghĩa , tình yêu mạnh mẽ nhưng mỏng manh , chân lý vừa xa xăm nhưng thật gần gũi . Đó là sức mạnh của tư tưởng .
Bấm vào tranh về đầu trang.
**
**
-------------------------------------------------------------------------------------------
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .
NGÔ TẤT TỐ - Lều chõng .
Phần 1 .
-------------------------------------------------------------------------------------------
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .
NGÔ TẤT TỐ - Lều chõng .
Phần 2 .
Xem tiếp
Vườn THƠ VĂN 1 .
Vườn THƠ VĂN 2 .
Vườn THƠ VĂN 3 .
Vườn THƠ VĂN 4 .
Vườn THƠ VĂN 5 .
-------------------------------------------------------------------------------------------
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .