MỤC LỤC

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013

Vườn THƠ VĂN 2





Vườn THƠ VĂN 2

------------------------------------------------------------------------------------------------------
ƯỚC MƠ HOÀNG TỬ BÉ .


Antoine de Saint-Exupéry

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Antoine Marie Jean-Baptiste Roger de Saint-Exupéry, thường được biết tới với tên Antoine de Saint-Exupéry hay gọi tắt là Saint-Ex (sinh ngày 29 tháng 6 năm 1900 - mất tích ngày 31 tháng 7 năm 1944) là một nhà vănphi công Pháp nổi tiếng. Saint-Exupéry được biết tới nhiều nhất với kiệt tác văn học Hoàng tử bé (Le Petit Prince)

Thời thơ ấu

Jean-Baptiste Marie Roger de Saint-Exupéry sinh năm 1900 tại thành phố Lyon trong một gia đình quý tộc địa phương, ông là con thứ ba trong số năm người con của Bá tước Jean de Saint-Exupéry, một nhà buôn cổ phiếu, và bà Marie Boyer de Fonscolombe. Năm người con của ông bà là Marie-Madeleine, Simone, Antoine, François và Gabrielle. Ông Jean mất khi Antoine mới lên ba tuổi, bà Marie phải một mình nuôi dưỡng cả năm đứa trẻ, tuy vậy bà vẫn tạo cho những đứa con của mình một nền kiến thức và nhân cách rất tốt. Saint-Exupéry trải qua thời thơ ấu hạnh phúc ở Saint-Maurice-de-Rémens cùng cả gia đình. Tuy vậy năm 1917, bi kịch đầu tiên xảy ra với nhà văn tương lai, đó là cái chết vì viêm khớp của người em út François, mười năm sau đó, căn bệnh lao phổi cũng cướp đi tính mạng của người chị Marie-Madeleine của Saint-Exupéry.

Đời phi công

Antoine vào học kiến trúc tại École des Beaux-Arts (Trường Mỹ thuật). Năm 1921, ông bắt đầu đi nghĩa vụ quân sự và được điều đến Strasbourg để học nghề phi công. Tốt nghiệp một năm sau đó, Saint-Exupéry được đề nghị gia nhập không quân nhưng do gia đình vợ chưa cưới phản đối, ông phải quay trở về Paris để nhận một công việc bàn giấy. Tuy vậy, cuối cùng việc kết hôn của Antoine không thành và sau vài lần không thành công trong những công việc khác nhau, ông quyết định quay lại nghề phi công năm 1926.
Làm việc trong công ty Aéropostale chuyên vận chuyển bưu phẩm bằng đường không từ Toulouse đến Darkar, Saint-Exupéry trở thành một trong những phi công tiên phong thực hiện những chuyến bay vận chuyển bưu phẩm quốc tế, thời điểm mà những chiếc máy bay còn được trang bị rất nghèo nàn và những phi công hầu như phải bay bằng kinh nghiệm và bản năng của chính họ. Sau này Antoine đã phàn nàn rằng người lái những chiếc máy bay hiện đại giống nhân viên kế toán hơn là phi công thực sự. Cuối năm 1927, Saint-Exupéry được chỉ định làm giám đốc một sân bay ở Cap Juby, Maroc với nhiệm vụ cải thiện mối quan hệ của công ty với cả những người ly khai gốc Moor và những người Tây Ban Nha. Năm 1929, Saint-Exupéry đến Nam Mỹ để điều hành hãng bưu phẩm hàng không Aerolíneas Argentinas.
Tác phẩm đầu tiên của Saint-Exupéry, cuốn L'Aviateur (Người phi công) được xuất bản trên tạp chí Le Navire d'Argent. Trong thời gian làm việc cho Aéropostale, nhà văn cho xuất bản tập sách đầu tiên, Courrier Sud (Chuyến thư miền Nam) (1929). Năm 1931, tác phẩm Vol de Nuit (Bay đêm) kể về những năm tháng sống ở Nam Mỹ của nhà văn đã giành giải thưởng lớn Prix Femina của Văn học Pháp. Cùng năm này, tại Grasse, Saint-Exupéry đã cưới bà Consuelo Suncín Sandoval, một nhà văn, nghệ sĩ người Salvador đã từng có một đời chồng. Cuộc hôn nhân của hai người nghệ sĩ sau này gặp rất nhiều sóng gió, khi Saint-Exupéry thường xuyên xa nhà và ngoại tình với nhiều phụ nữ Pháp, trong đó có Hélène de Vogüé, người được thừa hưởng di sản văn học của Saint-Exupéry và là tác giả một cuốn tiểu sử về ông (với bút danh Pierre Chevrier).
Năm 1934, sau những khó khăn của công ty, Saint-Exupéry phải chuyển sang làm phóng viên cho báo Paris-Soir. Ông đã đến Việt Nam năm 1934 và Moskva năm 1935. Tháng 12 năm 1935, trong khi cố gắng phá vỡ kỷ lục thời gian bay từ Paris đến Sài Gòn, chiếc máy bay Caudron Simoun của Saint-Exupéry và người thợ máy đã rơi xuống một sa mạc ở Libya. Họ đã được những người Ả Rập giải cứu và câu chuyện này đã được nhà văn kể lại trong tác phẩm Terre des Hommes (Cõi người ta [1]) xuất bản năm 1939. Tác phẩm này được đánh giá rất cao và đã giành giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp.

Chiến tranh. Mất tích

Trong giai đoạn đầu của Thế chiến thứ hai, Saint-Exupéry vẫn tiếp tục vừa viết văn vừa tiến hành những chuyến bay trinh sát cho Không quân Pháp (Armée de l'Air). Ngày 23 tháng 5 năm 1940, từ trên máy bay, ông đã chứng kiến đoàn xe tăng Đức (panzer) tấn công vùng Arras của nước Pháp [2]. Năm 1942, sau khi chính phủ Pháp đầu hàng Đức Quốc xã, nhà văn bay sang Mỹ và sống ở Asharoken trên bờ biển phía Bắc của Long Island và sau đó là Thành phố Québec [3].

Đài tưởng niệm Saint-Exupéry trên sân bay Bastia nằm ở đảo Corse
Sau thời gian ở Bắc Mỹ, Saint-Exupéry trở về Châu Âu chiến đấu cho Chính phủ tự do Pháp trong một phi đội vùng Địa Trung Hải. Ngày 31 tháng 7 năm 1944, ông lái chiếc máy bay kiểu P-38 Lightning mang số hiệu F-5B-1-LO, cất cánh từ một căn cứ trên Đảo Corse với nhiệm vụ thu thập thông tin về quân Đức ở thung lũng sông Rhone. Người ta không bao giờ còn nhìn thấy ông quay về. Một phụ nữ được ghi nhận đã nhìn thấy một chiếc máy bay rơi vào trưa ngày 1 tháng 8 ở gần Vịnh Carqueiranne; thi thể một quân nhân mặc quân phục Pháp cũng được tìm thấy vài ngày sau đó và được chôn cất ở Carqueiranne vào tháng 9.
Năm 1998, một người đánh cá được ghi nhận đã tìm thấy chiếc vòng tay bằng bạc của Saint-Exupéry trên biển phía Đông đảo Riou, Nam Marseille. Thoạt đầu người ta nghĩ rằng đây là một trò lừa, nhưng cuối cùng chiếc vòng được kiểm tra và xác nhận thực sự là của nhà văn. Nó được khắc tên vợ của Antoine và mắc vào một mảnh quân phục phi công của Saint-Exupéry. Ngày 7 tháng 4 năm 2004, các nhà nghiên cứu thuộc Cơ quan khảo cổ dưới nước Pháp đã xác nhận mảnh vụn của một chiếc P-38 Lightning được tìm thấy dưới đáy biển ngoài khơi Marseille năm 2000 là thuộc chiếc máy bay mất tích của Saint-Exupéry.
Trong hơn 50 năm kể từ ngày Saint-Exupéry mất tích, nguyên nhân chiếc máy bay bị tai nạn nằm trong vòng nghi vấn. Rất nhiều ý kiến cho rằng chiếc máy bay trinh sát này đã bị máy bay Đức bắn hạ. Tuy nhiên, ghi chép của quân đội Đức không cho thấy bất cứ chiếc máy bay nào bị bắn hạ ở vùng biển Địa Trung Hải vào ngày 31 tháng 7 và mảnh vụn của chiếc P-38 cũng không hề có dấu vết của một cuộc không chiến. Vì vậy, cũng có thể Saint-Exupéry đã gặp trục trặc kỹ thuật với chiếc máy bay của ông, thậm chí có người (như thợ lặn Luc Vanrell, người tìm thấy mảnh vỡ của chiếc P-38) cho rằng nhà văn đã tự sát. Cần biết thêm rằng Saint-Exupéry có ít kinh nghiệm với hệ thống dưỡng khí của chiếc máy bay và có thể là dưỡng khí đã hết trước khi phi công kịp quay về căn cứ.
Chỉ đến khi tìm thấy những mảnh vỡ của một chiếc máy bay Messerschmitt của Đức tìm thấy ngoài khơi Marseille, người ta mới lại điều tra về phía nước Đức. Cựu phi công của chiếc Messerschmitt, Horst Rippert, xác nhận đã bắn rơi một chiếc Lightning P-38 ở gần Marseille. Viên phi công nói rằng ông đã "luôn luôn hi vọng chiếc máy bay bị bắn rơi không phải là của Saint-Exupéry", vì "thời trẻ, chúng tôi đã đọc tất cả các tác phẩm của ông và chúng tôi yêu mến vô cùng những quyển sách đó". Kết quả đợt điều tra được Luc Vanrell và nhà báo Jacques Pradel tường thuật trong cuốn Saint-Exupéry, l’ultime secret (Saint-Exupéry, bí mật cuối cùng) do Nhà xuất bản Rocher phát hành ngày 20 tháng 3 năm 2008. [4]

Tác phẩm

Tác phẩm của Saint-Exupéry tập trung vào đề tài phi công hoặc lấy cảm hứng từ những chuyến bay của chính tác giả. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, Hoàng tử bé, nói về cuộc gặp gỡ kỳ lạ giữa một phi công bị rơi xuống sa mạc với cậu bé ngoài hành tinh. Do mất tích khi mới 44 tuổi và cũng dành rất nhiều thời gian để thực hiện các chuyến bay, số lượng tác phẩm của Saint-Exupéry không nhiều, nhưng đa phần đều đặc sắc.

Tiểu thuyết

  • L'Aviateur (Người phi công, 1926)
  • Courrier Sud (Chuyến thư miền Nam, 1929)
  • Vol de Nuit (Bay đêm, 1931)
  • Terre des Hommes (Cõi người ta [1], 1939)
  • Pilote de Guerre (Phi công thời chiến, 1942)
  • Lettre à un Otage (Thư gửi một con tin, 1943), sách thuộc thể loại chính luận
  • Le Petit Prince (Hoàng tử bé, 1943)
  • Citadelle (Cung thành, viết năm 1936, xuất bản sau khi ông mất, 1948)

Ghi chép

  • Moscou (viết cho báo Paris-Soir, 1935)
  • Espagne ensanglantée (Tây Ban Nha đẫm máu, viết cho báo L'Intransigeant, 1936)
  • Madrid (viết cho báo Paris-Soir, 1937)
  • La Paix ou la guerre (Hòa bình hay chiến tranh, viết cho báo Paris Soir, 1938)
  • Lettres des jeunesse (Thư từ thời trẻ, tập hợp các bức thư viết từ năm 1923 đến 1932, xuất bản sau khi ông mất)
  • Carnets (Sổ ghi, tập hợp ghi chép từ năm 1936 đến trước khi mất tích, xuất bản sau khi ông mất)
  • Lettres à sa mère (Thư gửi mẹ, tập hợp các bức thư từ năm 1910 đến năm 1944, xuất bản sau khi ông mất)
  • Un sens à la vie (Ý nghĩa cuộc đời, xuất bản sau khi ông mất)

 

Vinh danh


Biển tưởng niệm Saint-Exupéry trên tường điện Panthéon ở Paris
Trên bức tường của Điện Panthéon Paris, người ta đã gắn một tấm biển vinh danh nhà văn.
Ngày 29 tháng 6 năm 2000, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Saint-Exupéry, sân bay quốc tế của thành phố Lyon đã được đổi theo tên của nhà văn, Aéroport Lyon Saint-Exupéry. Ga tàu TGV ở thành phố quê hương của nhà văn được mang tên ông, ga TGV Lyon-Saint-Exupéry.
Tên ông được đặt cho một thiên thể, đó là tiểu hành tinh 2578 Saint-Exupéry (1975). Ngoài ra còn một đỉnh núi ở Patagonia, Argentina, nhiều trường học và đường phố ở Pháp đã được đặt tên theo tác giả của Hoàng tử bé.
Cho đến trước khi đồng euro ra đời, hình của Saint-Exupéry và bức tranh do ông vẽ minh họa kiệt tác Hoàng tử bé được in trên tờ 50 franc của Pháp.

Nguồn :  http://vi.wikipedia.org/wiki/Saint-Exupéry




















































*******************************************************************************************

Hoàng Tử Bé

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Hoàng Tử Bé
Littleprince.JPG
Tác giả Antoine de Saint-Exupéry
Tựa gốc Le Petit Prince
Bản tiếng Việt
Người dịch Bùi Giáng, Nguyễn Tấn Đại, Nguyễn Thành Long, Vĩnh Lạc
Hoàng Tử Bé ( Le Petit Prince), được xuất bản năm 1943, là tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn và phi công Pháp Antoine de Saint-Exupéry. Ông đã thuê ngôi biệt thự The Bevin HouseAsharoken, New York, Long Island trong khi viết tác phẩm này. Cuốn tiểu thuyết cũng bao gồm nhiều bức tranh do chính Saint-Exupéry vẽ. Tác phẩm đã được dịch sang hơn 250 ngôn ngữ (bao gồm cả tiếng địa phương) và cho đến nay đã bán được hơn 200 triệu bản khắp thế giới và được phát triển trở thành một sê ri truyện tranh có 39 chương. Truyện còn được dùng như tài liệu cho những người muốn làm quen với ngoại ngữ.

Cảm hứng

Vào ngày 30 tháng 12 năm 1935, lúc 14:45 sau một chuyến bay dài 19 tiếng và 38 phút, Saint-Exupéry, cùng với người bạn hoa tiêu, André Prévot, đã bị rơi máy bay ở sa mạc SaharaLibya trên lộ trình tới Sài Gòn. Họ đã cố gắng bay từ Paris tới Sài Gòn nhanh hơn những người đã từng bay trước đó để giành giải thưởng 150.000 franc. Máy bay của họ là Caudron C-630 Simoun n°7042 (seri F-ANRY).
Địa điểm rơi máy bay được cho là Wadi Natrum. Cả hai người đều sống sót qua vụ tai nạn và phải đối mặt với sự sợ hãi về việc mất nước nhanh chóng ở Sahara. Bản đồ họ có thì đã quá cũ và rất mờ mịt, do đó không có ích gì. Họ không có cách gì để giải quyết tình trạng này. Nho, táorượu đã giúp họ trụ vững được một ngày, nhưng sau đó không còn gì nữa. Cả hai người bắt đầu bị ảo giác. Giữa ngày thứ hai và ngày thứ ba, cơ thể họ đã bị mất nước rõ rệt và không đổ mồ hôi nữa. Cuối cùng, vào ngày thứ tư, một người Ả Rập du cư cưỡi trên một con lạc đà đã phát hiện ra họ và tìm các biện pháp chống lại sự mất nước nên đã cứu sống được hai người. Trong truyện Hoàng Tử Bé, khi Saint-Exupéry viết về việc bị bỏ lại trên sa mạc trong một cái máy bay bị hỏng, ông đã liên hệ thực tế chi tiết này với kinh nghiệm trong cuộc đời mình. Saint-Exupéry cũng nhắc đến chi tiết này trong quyển Cõi người ta (Terre des Hommes). Ông đã gặp một con cáo (vulpes zerda, cáo sa mạc) ở đó, có thể điều này cũng làm ông viết về con cáo trong tác phẩm.

Nội dung


Hoàng tử bé sống trên tiểu tinh cầu B612. Ở đó có ba ngọn núi lửa (hai ngọn đang hoạt động còn ngọn kia thì không) và một bông hoa hồng. Cậu chăm sóc cho tiểu hành tinh của mình hằng ngày, nhổ hết các cây bao báp định bám rễ, mọc lên tại đây. Những cái rễ đó sẽ xói đục hành tinh và làm cho thế giới cậu đang sống bị xé rách ra. Một ngày nọ, hoàng tử bé đã rời hành tinh của mình và đi xem phần còn lại của vũ trụ xem như thế nào và đã tới một vài tiểu tinh cầu khác (có số từ 325 đến 330), mỗi tinh cầu này có một người lớn sống ở đó và theo cách hiểu của cậu thì họ toàn là những người kỳ quặc:
  • Nhà vua là người có thể "điều khiển" các ngôi sao làm các việc theo khả năng. Ông ta có liên hệ tới mục đích của con người.
  • Gã khoác lác là người muốn được người khác ngưỡng mộ mình, nhưng lại sống cô đơn trên hành tinh của mình. Gã chẳng nghe thấy gì ngoài những câu ca ngợi.
  • Bợm nhậu là người uống rượu suốt ngày để quên nỗi xấu hổ của mình về việc uống rượu nhiều.
  • Nhà doanh nghiệp là người suốt ngày bận rộn với việc đếm các ngôi sao mà ông ta cho rằng là của mình. Việc sở hữu này có thể giúp ông ta lại mua thêm các ngôi sao khác nữa. Hoàng tử bé nghĩ về bông hoa hôm nào cậu cũng tưới, ba quả núi lửa mà tuần nào cậu cũng nạo vét để giúp ích cho các quả núi lửa và bông hoa, nên cậu có chúng. Còn nhà doanh nghiệp không giúp ích gì cho các ngôi sao thì có nghĩa là ông ta không thể sở hữu những ngôi sao đó.
  • Người thắp đèn là người sống trong một tiểu tinh cầu cứ 1 phút quay một vòng. Xưa kia ông ta có nhiệm vụ sáng tắt đèn và tối thì thắp. Hành tinh quay càng ngày càng nhanh hơn và đến lúc này, ông ta không còn lấy một giây để nghỉ ngơi. Mỗi phút phải thắp đèn và phải tắt đèn một lần. Hoàng tử bé cảm thấy thông cảm cho người thắp đèn vì ông là người lớn duy nhất trong số những người cậu đã gặp đã quan tâm cho một cái gì khác chứ không phải là bản thân ông ta.
  • Nhà địa lý là người đã dùng toàn bộ thời gian của mình để vẽ bản đồ, nhưng chẳng bao giờ rời khỏi cái bàn của mình để đi thám hiểm (thậm chí chỉ trên hành tinh của mình). Ông ta lý luận rằng nhà địa lý không thể đi lung tung mà phải ở nhà để tiếp các nhà thám hiểm, phỏng vấn họ, và ông ta ghi chép lại những hồi ức của họ. Và nếu hồi ức đó đáng chú ý thì nhà địa lý sẽ cho điều tra về tư cách của nhà thám hiểm ấy. Khi tư cách được chứng minh là tốt thì phát hiện của anh ta lại cần phải được điều tra. Nhà địa lý không tin bất cứ thứ gì ông ta không được nhìn thấy tận mắt, dù vậy, ông ta vẫn không chịu rời khỏi cái bàn của mình. Nhà địa lý yêu cầu hoàng tử bé mô tả về tiểu tinh cầu của mình để ông ghi chép lại. Hoàng tử bé nhắc đến những ngọn núi lửa và bông hoa hồng. "Chúng tôi không ghi nhận hoa hồng", nhà địa lý nói, "vì chúng chỉ là thứ phù du". Hoàng tử bé bị sốc và nhận ra rằng một ngày nào đó bông hoa hồng yêu quý của cậu sẽ không tồn tại nữa. Nhà địa lý sau đó đã khuyên cậu đến thăm trái đất.
Trên trái đất, hoàng tử bé nhìn thấy một khu vườn có rất nhiều hoa hồng và cậu cảm thấy rất đau khổ. Đoá hoa hồng của cậu đã kể rằng nàng là duy nhất trong giống nòi của nàng khắp trong vũ trụ, thế mà ở đây có đến năm nghìn đoá giống như nhau. Sau đó, có một con cáo xuất hiện, và đã giải thích rằng đóa hoa của cậu là duy nhất và đặc biệt vì bông hoa đó đã cảm hóa được cậu (Theo con cáo, "cảm hoá" là tạo nên những mối liên hệ; bông hồng của hoàng tử bé là duy nhất bởi chính thời gian và tình cảm mà chàng dành cho bông 
hồng đã khiến đóa hồng trở nên quan trọng đến thế với chàng).
Sau đó, hoàng tử bé đã gặp người kể chuyện và đề nghị anh ta vẽ một con cừu. Vì không biết vẽ con cừu như thế nào, anh ta đã vẽ theo những gì anh biết. Người kể chuyện đã cố gắng vẽ một vài bức tranh khác nhưng hoàng tử bé đều không vừa lòng. Cuối cùng, anh ta vẽ một cái thùng duy nhất, và giải thích rằng, có con cừu ở trong đó. Hoàng tử bé lúc này, nhìn thấy hình con cừu trong chiếc hộp rõ ràng như nhìn thấy hình con voi trong bụng con trăn trên bức tranh tác giá từng vẽ khi còn nhỏ, đã chấp nhận bức tranh này.
Sau một thời gian ở trái đất và chạy trốn tình cảm với hoa hồng mà không thể, hoàng tử bé nhờ một con rắn vàng chàng gặp trong sa mạc dùng nọc độc của nó đưa chàng về với tiểu tinh cầu và hoa hồng yêu thương của chàng.

Thiên văn học

Tên gọi của tiểu hành tinh 2578 Saint-Exupéry (được phát hiện vào năm 1975) được đặt theo tên tác giả của Hoàng Tử Bé.
Cũng bắt nguồn từ Hoàng Tử Bé, một tiểu hành tinh được phát hiện vào năm 1993 có tên gọi là 46610 Bésixdouze: "46610" là biểu diễn trong hệ thập phân của số thập lục phân B612, trong khi "Bésixdouze" là cách viết trong tiếng Pháp của "B-sáu-mười hai". B-612 là tên của tiểu hành tinh nơi hoàng tử bé sinh sống trong câu chuyện.
Vào năm 2003, một vệ tinh nhỏ (được phát hiện vào năm 1998) được đặt tên là Petit-Prince. Cái tên này được lấy theo tên của hoàng tử bé và cũng theo hoàng tử Napoléon Eugène (con trai của vua Napoléon III và hoàng hậu Eugénie). Còn chính tiểu hành tinh có vệ tinh trên, được đặt tên theo hoàng hậu Eugénie.
Quỹ B612 được sáng lập nhằm đảm bảo sự sống còn của nhân loại trên hành tinh của chúng ta: hỗ trợ tìm kiếm và theo dõi các tiểu hành tinh đi qua quỹ đạo trái đất, đồng thời đánh lạc hướng trong trường hợp cần thiết đối với những tiểu hành tinh có nguy cơ gây hiểm họa; quỹ được đặt tên B612 để vinh danh "quê nhà" của hoàng tử bé.

Các bản dịch

Tác phẩm được dịch sang 257 ngôn ngữ.[1] Các bản dịch tiếng Việt gồm [1]:
  • Cậu hoàng con, Trần Thiện Đạo dịch (NXB Khai Trí, 1966)
  • Hoàng Tử Bé, Bùi Giáng dịch (NXB An Tiêm, Sài Gòn 1973, tái bản 2005 [2])
  • Hoàng Tử Bé, Vĩnh Lạc dịch (NXB Đồng Nai năm 1994, NXB Văn Học năm 2008, Đông A và NXB Dân Trí tái bản năm 2011)
  • Em bé con nhà trời (NXB Kim Đồng, 2000) hay là Chú bé Hoàng tử, Nguyễn Thành Long dịch (NXB Ngoại Văn 1987, NXB Đà Nẵng tái bản năm 2012 [2])
  • Hoàng tử bé, Trịnh Nhất Định dịch (NXB Trẻ TP. HCM, 2000)
  • Hoàng Tử Bé, Nguyễn Tấn Đại dịch (Nhà Xuất bản Hội nhà văn phát hành năm 2005)
  • Hoàng tử bé, Châu Diên dịch (NXB Lao động, 2007)

Đánh giá

Bùi Giáng gọi đây là "tác phẩm thơ mộng nhất và u uẩn nhất trong những tác phẩm của Saint Exupéry". [2]

Ảnh hưởng

Ngày 14 tháng 12 năm 2011, tượng sáp hoàng tử bé đã được đặt tại Bảo tàng Grévin, Paris.[1] Ngoài ra, tác phẩm Hoàng Tử Bé còn được dựng thành phim hoạt hình [3]

Liên kết ngoài

 

Tham khảo

  1. ^ a b Công Khanh (theo Le Parisien). “Hoàng tử bé được dựng tượng sáp”. 07/01/2012. Tuổi trẻ Online. Truy cập 12 tháng 6 năm 2012.
  2. ^ a b “Tái bản Hoàng tử bé (Le petit prince)”. 23/09/2005. Thanh Niên Online. Truy cập 12 tháng 6 năm 2012.
  3. ^ Hoàng tử bé lên phim, Tuổi Trẻ 20/01/2004

Xem thêm


======================================================================






 *******************************************************************************************



*******************************************************************************************






------------------------------------------------------------------------------------------------------
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein .



====================================================================

Ngã tư tháng Chạp



Ngã tư mưa
Oà lên vài gương mặt đẹp
Nhà cửa như quần áo rách
Xích lô lầm lụi lên cầu.

Bà già bán thông phong bóng đèn
Ca thán về thời buổi khó
Người ta đánh một thằng ăn cắp
Mặt trẻ ranh gian giảo
Máu chảy ròng xuống vai.
Ai nói oang oang
Những tin chiến sự
Ai cười lên ha hả
Giễu một người ngã xe.
Tôi mua hào thuốc lá
Ngồi hút mà buồn thiu

Cuộc đời chẳng ra làm sao
Có đáng cho mình đau đớn?
Em yêu hay không yêu
Quan trọng gì mà phải khổ ?
Thôi chẳng chờ mong nữa
Chẳng đua chen với cuộc đời này
Xin chối từ cái bàn tiệc đắng cay
Lòng tốt ai cần đến
Thơ không đâu dùng
Anh như thằng Bờm
Chẳng thiết trâu bò chẳng thiết lim
Chỉ nhận nắm xôi cười ngặt nghẽo.
Muốn lên tàu đi đâu thật xa
Nhưng nhà ga đã sụp

Ngã tư mưa nhớ em
Vừa thương vừa trách giận
Sao chân em giẫm đạp
Lên những gì tôi yêu?


Lưu Quang Vũ

------------------------------------------------------------------------------------------------------
CÓ ĐÔI BÀN TAY ẤM .


Giảng đường vắng lặng
Chỉ có mình tôi
Ngoài sân lá rụng
Mùa thu đến rồi .

Bước chân nhỏ bé
Xuyến xao cuộc đời
Tiếng chim sâu hót
Âm vang bầu trời  .


Nhỏ như chiếc lá
Chép vội dòng thơ
Tôi giữ ước mơ
Xin làm sợi nắng


Đường hoa sứ trắng
Quen bước chân qua
Hôm nay vắng bóng
Một người đi xa .
...
Mùa đông ở lại
Nỗi nhớ lắt lay
Em về nơi ấy
Có ấm đôi tay ?



Em về có ấm đôi tay
Mùa thu ở lại nơi đây một mình
Để nghe sương khói cuộc tình
Mây mù nắng nhạt mơ hình bóng ai
Suối reo bên giọt sương mai
Tiếng thơ tôi khẽ thở dài nhớ thương .
Người đi bỏ lại con đường
Hoa vàng ngập lối ngôi trường đìu hiu .
Quán xưa nhớ một buổi chiều
Bàn tay bối rối cho nhiều nhớ nhung
Mây trôi bạc tóc bềnh bồng
Chân chim đôi mắt mỏi trông người về .



Chiều mưa nhớ mùa thu cũ
Trần hồng Cơ
12/07/2012





====================================================================

Christophe - Les paradis perdus


Dans ma veste de soie rose
Je déambule morose
Le crépuscule est grandiose

{Refrain}
Mais peut-être un beau jour voudras-tu
Retrouver avec moi
Les paradis perdus

Dandy un peu maudit, un peu vieilli
Dans ce luxe qui s´effondre
Te souviens-tu quand je chantais
Dans les caves de Londres?
Un peu noyé dans la fumée
Ce rock sophistiqué
Toutes les nuits tu restais là

{Au refrain}

Bandit un peu maudit, un peu vieilli
Mes musiciens sont ridés
Sur ce clavier qui s’est jauni
J´essaie de me rappeler
Encore une fois
Les accords de ce rock sophistiqué
Qui étonnait même les Anglais

{au Refrain}

Peut-être un beau jour voudras-tu
Retrouver avec moi
Les paradis perdus

Les paradis perdus
Les paradis perdus

The lost paradise

In my pink silk jacket
I walk gloomy
Twilight is awesome

{Refrain}
But maybe one day you wish
Up with me
The lost paradise

Dandy a bit cursed, a bit dated
In this luxury collapses
Do you remember when I was singing
In the cellars of London?
A little lost in the smoke
This sophisticated rock
Every night you stay there

{Chorus}

Bandit a bit cursed, a bit dated
My musicians are wrinkled
On this keyboard that has yellowed
I'm trying to remember
Once again
Agreements of this sophisticated rock
Which surprised even the English

{ Refrain}

Maybe one day you wish
Up with me
The lost paradise

The lost paradise
The lost paradise





------------------------------------------------------------------------------------------------------


 Ernest Hemingway và tác phẩm Giã từ vũ khí .



 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Giã từ vũ khí
Gia tu vu khi.jpg
Tác giả Ernest Hemingway
Quốc gia Cờ Hoa Kỳ Hoa Kỳ
Ngôn ngữ tiếng Anh
Thể loại Tiểu thuyết chiến tranh
Bán tự truyện
Nhà xuất bản Scribner's Magazine
Ngày phát hành tháng 5-tháng 10/1929
Kiểu sách In (nhiều tập)
Số trang 336
ISBN ISBN 978-0-684-80146-9

Paramedics cap from the possession of Hemingway
Giã từ vũ khí (tiếng Anh: A Farewell to Arms) là một tiểu thuyết bán tự truyện của nhà văn Ernest Hemingway viết 1929. Phần lớn cuốn tiểu thuyết này được viết tại nhà bố mẹ vợ Hemingway ở Piggott, Arkansas. Được nhiều nhà phê bình xem là một trong những tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại, câu chuyện được thuật lại thông qua lời kể của trung úy Frederic Henry, một người Mỹ nhưng lái xe cứu thương trong quân đội Ý vào thời Đệ nhất thế chiến.

Tóm tắt nội dung

Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
Tiểu thuyết này được chia thành 5 phần: phần 1, Henry gặp Catherine Barkley và mối tình của họ chớm nở. Trong thời gian phục vụ trên mặt trận Italia, Henry bị thương vào đầu gối do đạn pháo nên anh được chuyển tới một bệnh viện ở Milano. Phần 2 kể lại sự phát triển mối tình của Henry và Catherine khi họ sống bên nhau tại Milano trong mùa Hè. Henry ngày càng yêu Catherine, rồi đến khi anh lành vết thương, Catherine đã có thai 3 tháng. Trong phần 3, Henry trở về đơn vị của mình, nhưng chẳng bao lâu sau thì quân Đức phá vỡ mặt trận Ý khiến quân Ý tháo chạy hỗn loạn. Sau khi bị tụt lại đằng sau, Henry cố bắt kịp đơn vị, nhưng anh lại bị hiến binh Ý bắt giữ và mang đi xử tử, vì bị buộc tội "phản bội", góp phần dẫn đến thất bại của quân Ý. May mắn là Henry trốn thoát được bằng cách nhảy xuống sông. Trong phần 4, Catherine và Henry đoàn tụ và bỏ trốn đến Thụy Sỹ bằng cách chèo thuyền qua biên giới. Trong phần cuối, Henry và Catherine sống cuộc đời bình lặng tại vùng núi, cho tới khi Catherine sinh con. Sau một cơn đau đẻ dài và khó nhọc, con trai của họ chết trong bụng mẹ, còn Catherine thì bị băng huyết mà chết, bỏ lại Henry một mình ngậm ngùi quay về nhà trọ trong cơn mưa tầm tã (Catherine vốn rất thích nhìn trời mưa).

Nhân vật chính

  • Trung úy Frederic Henry, thường được gọi là Tenente (tức trung úy), là nhân vật chính, và là người thuật lại câu chuyện. Henry là một người Mỹ tình nguyện lái xe cứu thương trong quân đội Ý. Thông qua Henry, người đọc có thể thấy hình mẫu "anh hùng" của Hemingway định hình: Henry là một người khắc kỷ, kiên cường chống chọi lại sức ép và khổ ải; anh nhẹ nhàng tránh những lời khen ngợi đóng góp của mình cho cuộc chiến; bình tĩnh dưới làn đạn; thực hiện nhiệm vụ được giao. Anh là "người bạn đích thực của cánh đàn ông" khi chủ đề là rượu và phụ nữ. Anh có vẻ hào hứng tham gia vào những chuyện tếu hàng ngày của cánh quân nhân. Anh bị thu hút bởi lòng tốt giản đơn của vị cha xứ, người cũng giống như Henry (là người không sùng đạo), vẫn trung thành với niềm tin của mình dù sự khủng khiếp của chiến tranh luôn hiển hiện ở bên. Dù rằng anh vui thích với tính cách hồ hởi của bạn anh, Rinaldi, nhưng anh vẫn ngại tính thích hôn khi gặp mặt của anh này.
  • Catherine Barkley đã quen với sự nghiệt ngã của số phận. Cô phải từ chối lời cầu hôn khi chiến tranh nổ ra, rồi người yêu cô bị hy sinh trên chiến trường. Cô là một nữ y tá giỏi người Anh, có tình cảm sâu sắc. Nhu cầu sinh lý và mong muốn bầu bạn giản đơn của cô có những lúc xung khắc với đòi hỏi công việc buộc cô phải dành thời gian cho người bệnh. Cũng giống như người hùng kiểu mẫu, cô xoay xở nhẹ nhàng, tìm cách thỏa mãn đòi hỏi từ cả hai phía. Người theo tư tưởng nữ quyền nhìn thấy ở Catherine người phụ nữ hoàn hảo của Hemingway: khôn ngoan và thích chế giễu đủ điều, nhưng sự sáng suốt của cô vẫn phải nhường bước cho dục vọng bản thân. Cũng như Henry hy sinh tuổi xuân và sức lực cho cuộc chiến tranh, sự anh hùng của Catherine thể hiện ở việc cô bất kể nguy cơ mang thai khi quan hệ tình dục, và chấp nhận sự đau đớn cũng như cái chết khi sinh con không một lời than vãn.
  • Rinaldi là một y sỹ, mà qua đó Hemingway vẽ nên hình mẫu người đàn ông Ý. Được phác họa phần nào có vẻ hiếu chiến, Rinaldi luôn tỏ ra hồ hởi, không bận tâm đến những tiểu tiết đáng lẽ có thể làm anh mất đi vẻ rộng rãi và tốt bụng của mình. Anh chàng thích rượu và phụ nữ, luôn vác theo một chai rượu và một câu chuyện tiếu lâm dung tục cho anh bạn Henry của mình khi Henry còn đang dưỡng thương. Anh thích giải phẫu, xem đó là một sự thách thức thú vị; và luôn chào mừng Henry bằng một nụ hôn kiểu Âu châu. Rinaldi cũng là một anh hùng kiểu mẫu, mà qua anh, Hemingway khám phá ra một kiểu cách đàn ông, khác với hình mẫu đàn ông Anh-Mỹ, khi đối đầu với nghịch cảnh: hình ảnh nước Ý bị tổn thương, nhưng với tinh thần vui sống, bất chấp hiểm nguy, luôn sống hết mình.

Chuyển thể thành phim

  • Cuốn tiểu thuyết được Laurence Stallings chuyển thể thành phim năm 1930.
  • Bộ phim "Giã từ vũ khí" (sản xuất năm 1932) được đề cử giải Oscar cho phim có hình ảnh đẹp nhất. Kịch bản phim được viết bởi Oliver H.P. Garrett và Benjamin Glazer, đạo diễn Frank Borzage, và Richard Wagner soạn nhạc. Diễn viên chính Helen Hayes, Gary Cooper và Adolphe Menjou [1].
  • Bộ phim "Giã từ vũ khí" (sản xuất năm 1957) với diễn viên chính Rock Hudson, Jennifer Jones và Vittorio De Sica được đạo diễn bởi Charles Vidor và John Huston. De Sica được đề cử Oscar cho diễn viên phụ xuất sắc nhất[2].
  • Đài BBC cho chiếu bộ phim, được rút gọn so với nguyên bản - biên tập bởi Giles Cooper, đạo diễn Rex Tucker, diễn viên Vanessa Redgrave và George Hamilton - ngày 15 tháng 2 năm 1966 [3].

Bản dịch tiếng Việt

  • Giã từ vũ khí, Giang Hà Vỵ dịch, NXB Cà Mau 1987, NXB Văn hoá thông tin tái bản 2001

Xem thêm

Chú thích



xem phim  http://video.google.com/videoplay?docid=-4395259497890982283&hl=en


VĂN HÀO ERNEST HEMINGWAY
(Thứ Năm, 24 Tháng Hai-2011) (Xem: 17812)
Tác giả : VŨ THUÝ VI

Ernest Miller Hemingway (21 tháng 7, 1899- 2 tháng 7, 1961) là một nhà văn, nhà báo Mỹ. Cách viết văn riêng biệt - biểu thị qua đặc điểm lối mô tả khiệm lời và khiêm nhường -  cũng như những cuộc phiêu lưu và hình tượng công chúng của ông đã tạo nên nhiều ảnh hưởng cho nền văn chương hư cấu của thế kỷ thứ 20. Ông cho ra đời nhiều tác phẩm giữa thập niên 1920 và giữa thập niên 1950. Năm 1954, ông được trao giải văn chương Nobel Hòa Bình. Tác phẩm của Hemingway gặt hái thành công vì những nhân vật mà ông mô tả chứa đựng sự chân thực dễ cảm thông với độc giả. Rất nhiều tác phẩm của ông được liệt vào dòng văn chương cổ điển tiêu biểu của Mỹ. Ông đã cho xuất bản 7 tiểu thuyết, 6 tập truyện ngắn, và 2 tác phẩm phi hưu cấu trong lúc còn sống.  Sau khi ông mất, thêm 3 quyển tiểu thuyết, 4 tập truyện ngắn và 3 tác phẩm thuộc loại văn miêu tả sự thật đã được xuất bản.

Hemingway được sinh ra và lớn lên tại Oak Park, Illinois. Sau khi rời trung học, ông làm việc vài tháng cho tờ Kansas City Star trước khi tham gia vào quân đội Ý để trở thành tài xế lái xe cứu thương trong Đệ Nhất Thế Chiến. Trải nghiệm đó trở thành nền tảng cho tiểu thuyết A Farewell to Arms của ông. Ông đã bị thương trầm trọng và trở về nhà trong cùng năm đó. Vào năm 1922 Hemingway kết hôn với Hadley Richardson, người vợ đầu tiên trong 4 người vợ, và hai người dời về Paris, nơi ông sinh sống bằng nghề đặc phái viên quốc tế. Trong thời gian ở tại đây ông gặp gỡ và chịu ảnh hưởng bởi những cây bút đương thời và giới nghệ sỹ thuộc cộng đồng tha hương của thập niên 1920 còn được gọi là “The Lost Generation.” Tiểu thuyết đầu tay của ông, The Sun Also Rises, đã được ra đời vào năm 1924.


Sau khi ly dị Hadley Richardson vào năm 1927, Hemingway tái hôn với Pauline Pfeiffer. Cặp đôi cũng đi đến ly hôn khi Hemingway trở về sau chuyến công tác tường thuật cuộc nội chiến tại Tây Ban Nha. Ít lâu sau đã ông đã viết tác phẩm For Whom the Bell Tolls. Martha Gellhorn trở thành người vợ thứ ba của ông vào năm 1940, nhưng ông chia tay với bà khi phải lòng Mary Welsh Hemingway sau Đệ Nhị Thế Chiến, cuộc chiến mà ông đã có mặt để chứng kiến ngày D-Day và ngày giải phóng Paris.


Ngay sau khi xuất bản tác phẩm The Old Man and the Sea vào năm 1952, Hemingway thực hiện chuyến thám hiểm Phi Châu, nơi ông suýt tử vong trong một tai nạn máy bay. Tai nạn đó đã để lại thương tích và hao tổn sức khỏe trong những ngày còn lại của cuộc đời ông. Hemingway sống cố định tại Key West, Florida, và Cuba trong thập niên 1930 và 1940, nhưng vào năm 1959 ông dời từ Cuba về Ketchum, Idaho, nơi ông tự vẫn quyên sinh vào mùa hè năm 1961.


Một số tác phẩm chọn lọc của nhà văn Ernest Hemingway:


Indian Camp (1926)

Indian Camp là một truyện ngắn viết bởi Ernerst Hemingway. Truyện này được đăng tải lần đầu tiên vào năm 1924 trên tờ báo văn chương The Transatlantic Review, và xuất bản một năm sau đó trong tập truyện ngắn của Hemingway tựa đề In Our Time.

Đây là truyện ngắn đầu tiên mà Hemingway trình làng nhân vật Nick Adams. Trong câu chuyện cha của Nick Adams, một bác sĩ ngoại ô, được gọi đến phụ trách ca đỡ đẻ. Nick cùng ông chú đi theo vị bác sĩ, người bị buộc phải thực hiện một cuộc giải phẫu khẩn cấp trên người đàn bà mang thai. Sau đó, chồng của bà bị khám phá ra đã chết bằng cách dùng dao cắt cổ họng mình trong quá trình cuộc giải phẫu.


Giới chuyên gia phê bình đánh giá cao truyện ngắn này vì nó biểu lộ phong cách viết văn theo lối tương phản của Hemingway, và những chủ đề đặc thù khác tỏa rộng trong nhiều tác phẩm sau này của ông.


The Sun Also Rises- Mặt Trời Cũng Mọc (1927)


Đây là quyển tiểu thuyết quan trọng đầu tiên bởi Ernerst Hemingway. Xuất bản vào năm 1926, nội dung tập trung vào một nhóm kiều bào sống tha hương người Mỹ và người Anh tại lục địa Âu Châu trong thập niên 1920. Câu chuyện đi theo nhóm này từ Paris đến lễ hội đấu bò tại Pamploma. Tựa đề nguyên thủy của tác phẩm này đã là Fiesta, vốn được dùng trong ấn bản tiêu thụ tại Anh Quốc, Đức, Nga, Ý, Tiệp Khắc và Tây Ban Nha. Tác phẩm này thường được cho là tiểu thuyết hay nhất của Hemingway. Nhân vật chính trong The Sun Also RisesTime đưa tiểu thuyết này trên bảng danh sách 100 tác phẩm Hoa Kỳ hay nhất từ năm 1923 đến năm 2005. là Jake Barnes, một nhà báo tha hương ở lứa tuổi 20, đang sống tại Paris. Barne trở nên bất lực do một vết thương trong cuộc chiến, mặc dù nguyên nhân gây nên vết thương này không được mô tả đến. Anh yêu Phu Nhân Brett Ashley, một phụ nữ người Anh từng 2 lần ly dị, đang trong lứa tuổi 30, người có được danh tước từ cuộc hôn nhân trước của bà . Brett để tóc ngắn và là hiện thân của sự tự do tình dục mới bùng nổ của thập niên 1920 và đã qua nhiều mối tình trong đời. Tác phẩm này đã giúp Hemingway nổi tiếng và tạo cảm hứng cho phụ nữ trẻ trên khắp nước Mỹ để tóc ngắn và ăn mặc giống như vị nữ anh hùng trong truyện - và mang thái độ cũng tương tự - và thay đổi đường lối sáng tác vốn có thể tìm thấy trong bất cứ tờ báo Hoa Kỳ nào phát hành trong vòng 20 năm sau đó. Tờ báo





A Farewell to Arms (1929)


A Farewell to Arms là tác phẩm thể loại tự truyện viết bởi Ernest Hemingway, xuất bản vào năm 1929. Tác phẩm được kể lại qua ánh nhìn của trung úy Frederic Henry, một người lính Hoa Kỳ giữ trách nhiệm lái xe cứu thương trong quân đội Ý vào Đệ Nhất Thế Chiến. Tựa sách được trích từ một bài thơ bởi kịch tác gia người Anh George Peele của thế kỷ thứ 16. Tiểu thuyết này kể về những kinh nghiệm trong Đệ Nhất Thế Chiến của Hemingway và mối liên hệ tình cảm với Agnes von Kurowsky ở Milan. Trên bề mặt, A Farewell to Arms là một thảm kịch tình yêu giữa một người lính Mỹ Frederic Henry, và Catherine Barkley, một y tá người Anh. Mặt dưới chiều sâu, quyển sách này nói về Đệ Nhất Thế Chiến và nghịch cảnh cá nhân bao trùm trong một khung cảnh lớn hơn của thảm kịch vĩ đại. Câu chuyện mô tả sự ích kỷ thờ ơ của người lính chiến và sự mất mát dời đổi của dân số. Vị trí của Hemingway là một nhà văn Hoa Kỳ đã được bảo toàn với sự xuất hiện của A Farewell to Arms. Tiếu thuyết này đã được chuyển thể thành phim vào năm 1932 và một lần nữa vào năm 1957.





The Short Happy Life of Francis Macomber

The Short Happy Life of Francis Macomber (Cuộc Đời Ngắn Ngủi Nhưng Vui Vẻ của Francis Mabomber) là một truyện ngắn của Ernerst Hemingway, lấy bối cảnh tại Phi Châu và đã được đăng tải vào tháng 9, 1936 trên ấn bản của tờ Cosmopolitan.
Francis Macomber và vợ Margaret đang trên một chuyến đi săn tại Phi Châu được hướng dẫn bởi chuyên gia săn bắn Robert Wilson. Vào lúc ban đầu, Francis bị hoảng hốt khi một con sư tử bị thương chuẩn bị tấn công ông. Margaret chế nhạo Macomber cho cử chỉ hèn nhát này và cùng lúc ngụ ý bà đang ngoại tình với ông Wilson.
Ngày kế tiếp cả đoàn đi săn bò rừng. Macomber tham gia cùng với Wilson giết được hai con và không còn sợ hãi nữa. Con bò rừng đầu tiên đã bị thương và chạy trốn trong bụi rậm. Wilson cùng Macomber đi theo vết tích để tìm kiếm con thú bị thương, trường hợp tương đương với tình cảnh của ngày săn sư tử trước đó. Khi họ tìm thấy con bò rừng, nó chạy tới tấn công Macomber khi ông đứng trên đất và bắn vào nó. Ông bắn quá cao, và Wilson cũng bắn vào con vật, nhưng nó vẫn chạy tới. Macomber bắn khá hơn và giết chết con bò rừng trong giây phút cuối cùng, trong khi Margaret bắn một phát súng từ chiếc xe. Phát súng của bà bắn hụt con bò rừng và giết chết Macomber. Wilson tỏ ý rằng Margaret đã cố tình giết chết ông.



For Whom the Bell Tolls

For Whom the Bell Tolls được xuất bản vào năm 1940, kể về câu chuyện của Robert Jordan, một thanh niên Hoa Kỳ trẻ trong đội quân của những người tình nguyện chống lại chủ nghĩa Phát Xít và sự gắn bó của anh với một toán quân Cộng Hòa du kích trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Là một chuyên gia về thuốc nổ, anh được giao nhiệm vụ làm nổ một cây cầu trong một cuộc tấn công thành phố Segovia. Cuốn tiểu thuyết này được nhìn nhận là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Hemingway.


The Old Man and the Sea


The Old Man and the Sea (Ông Già và Biển Cả) được viết tại Cuba vào năm 1951 và xuất bản vào năm 1952. Đây là tác phẩm quan trọng cuối cùng trong loạt truyện hư cấu được sáng tác bởi Hemingway. Câu chuyện tập trung vào nhân vật Santiago, một ngư dân lớn tuổi gốc Cuba, người phải vật lộn với một con cá dao không lồ ngoài biển khơi.


A Moveable Feast

A Moveable Feast là bộ hồi ký viết bởi nhà văn Ernest Hemingway, kể về những năm ông sống tại Paris và thuộc trong thành phần của những người viết Hoa Kỳ sống tha hương vào thập niên 1920. Tác phẩm mô tả thời gian học nghề của một tay viết trẻ tại Âu Châu (đặc biệt tại Paris) trong thập niên 1920 với người vợ đầu tiên, Hadley. Một số người nổi tiếng sau này được giới thiệu trong quyển hồi ký của ông bao gồm Aleister Crowley, Ezra Pound, F. Scott Fitzgerald, Ford Madox Ford, Hilaire Belloc, Pascin, John Dos Passos, Wyndham Lewis, James Joyce và Gertrude Stein. Tác phẩm đã được biên tập từ những bản thảo của ông bởi người vợ thứ tư là bà Mary Hemingway - một nhà báo được kính trọng -và đã được xuất bản vào năm 1964, ba năm sau ngày ông qua đời. Một ấn bản khác  cũng được viết lại bởi cháu trai ông là Sean Hemingway và xuất bản vào năm 2009. Cả hai ấn bản này đều bị chỉ trích trầm trọng.


True at First Light

True at First Light đã được xuất bản sau khi nhà văn Ernest Hemingway qua đời vào năm 1999 trong ngày lễ kỷ niệm 100 năm của danh hào. Tác phẩm này đã không được hoàn tất trước khoảng thời gian ông Hemingway tự vẫn vào tháng 7, 1961. True at First Light kể về chuyến đi săn đến miền Đông Phi Châu vào năm 1953 của Hemingway với người vợ thứ tư, Mary. Tác phẩm đi sâu vào xung đột hôn nhân, xung đột văn hóa và nỗi lo sợ mà một nhà văn phải đối diện khi viết lách trở thành khó khăn bất khả, trong khi mặt nổi mô tả một chuyến đi săn tại Kenya.
Khi chuyến đi săn kết thúc, vào tháng 1, 1954, Hemingway cùng vợ bị thương tích liên tiếp trong hai tai nạn rớt máy bay vào thời gian cách biệt chỉ hai ngày. Mặc dù giới báo chí quốc tế đưa tin ông đã chết, ông cuối cùng đến được Entebbe để trực tiếp trả lời các câu hỏi của phóng viên. Chỉ nhiều tháng sau đó, khi ông trở về lại Âu Châu, thương tích trầm trọng đó mới được biết đến.
Phần nhiều trong hai năm sau đó ông hồi phục sức khỏe tại Cuba và làm việc với bản thảo mà ông xem như cuốn sách cuối cùng về Phi Châu mà ông không thể hoàn tất. Vào thập niên 1970, sau cái chết của ông, Mary đã biếu tặng bản thảo chưa hoàn tất này cho thư viện John F. Kennedy; và vào cuối thập niên 1990 bản thảo này được trao trả cho con trai ông – Patrick - người đã biên tập lại hơn phân nửa tác phẩm trước khi xuất bản. Qua hành động đó, Patrick khẳng định anh củng cố lại câu chuyện và nhấn mạnh thêm những khía cạnh hư cấu, kết quả là sự kết hợp của hồi ký và tiểu thuyết hư cấu.
True at First Light nhận được phê bình khen chê lẫn lộn, khi được đồng xuất bản với Hemingway Ltd. Line, thương hiệu giới thiệu những di vật của nhà văn Earnest Hemingway.
Vũ Thuý Vi lược dịch


nguồn :  http://www.hopluu.net/D_1-2_2-122_4-1645_5-8_6-1_17-14_14-2/

-------------------------------------------------------------------------------------------

Những người khốn khổ


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Những người khốn khổ (Les Misérables)
Ebcosette.jpg
Chân dung "Cosette" do Emile Bayard vẽ, trong phiên bản ban đầu của Les Misérables (1862)
Tác giả Victor Hugo
Quốc gia Pháp
Ngôn ngữ tiếng Pháp
Thể loại tiểu thuyết
Nhà xuất bản A. Lacroix, Verboeckhoven & Ce.
Ngày phát hành 1862
Những người khốn khổ (Les Misérables) là tiểu thuyết của văn hào Pháp Victor Hugo, được xuất bản năm 1862. Tác phẩm được đánh giá là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 19.
Những người khốn khổ là câu chuyện về xã hội nước Pháp trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ 19 kể từ thời điểm Napoléon I lên ngôi và vài thập niên sau đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Jean Valjean, một cựu tù khổ sai tìm cách chuộc lại những lỗi lầm gây ra thời trai trẻ. Bộ tiểu thuyết không chỉ nói tới bản chất của cái tốt, cái xấu, của luật pháp, mà tác phẩm còn là cuốn bách khoa thư đồ sộ về lịch sử, kiến trúc của Paris, nền chính trị, triết lý, luật pháp, công lý, tín ngưỡng của nước Pháp nửa đầu thế kỷ 19. Chính nhà văn Victor Hugo cũng đã viết cho người biên tập rằng: "Tôi có niềm tin rằng đây sẽ là một trong những tác phẩm đỉnh cao, nếu không nói là tác phẩm lớn nhất, trong sự nghiệp cầm bút của mình"[1].
Những người khốn khổ cũng nổi tiếng vì đã được chuyển thể nhiều lần thành các vở kịch, bộ phim, trong đó nổi tiếng nhất phải kể tới vở nhạc kịch cùng tên, thường được gọi tắt là "Les Mis" (viết tắt từ Les Misérables).

Nội dung

Lưu ý: Phần sau đây có thể cho bạn biết trước nội dung của tác phẩm.
Bản thân Những người khốn khổ có rất nhiều câu chuyện, nhân vật với những cuộc đời khác nhau, nhưng sợi dây nối những mảnh đời riêng biệt này lại là câu chuyện về Jean Valjean (Giăng Van-giăng), người cựu tù khổ sai, người đang cố gắng sống vì một xã hội tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình. Sau 19 năm ngồi tù với số tù 24601 vì ăn cướp thức ăn cho gia đình của mình đang lâm vào cảnh chết đói, người nông dân Jean Valjean được thả. Tuy nhiên anh phải mang theo giấy thông hành vàng, dấu hiệu cho thấy người mang nó từng phạm tội, vì vậy Jean bị chủ quán trọ từ chối và buộc phải ngủ ngoài đường. May cho anh là giám mục Myriel, một người nổi tiếng hay làm từ thiện đã cho Jean Valjean một chỗ nương náu. Khi mọi người đã ngủ, Jean lại ăn cắp mấy thứ đồ bạc của giám mục và chạy trốn, anh bị bắt lại sau đó nhưng lại được ông Myriel cứu thoát khi nói với cảnh sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Khi chia tay vị giám mục già nói với Jean Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm nhiều việc tốt cho mọi người.
6 năm sau Valjean, nay mang tên ông Madeleine, đã trở thành một chủ xưởng giàu có và là thị trưởng thành phố nhỏ nơi ông sinh sống, Valjean phải mang tên giả để tránh sự phát hiện của thanh tra Javert (Gia-ve) vẫn đang truy tìm ông ráo riết. Tuy nhiên số phận buộc Valjean phải để lộ danh tính của mình khi một người đàn ông khác bị nhầm là Jean Valjean và bị bắt đưa ra tòa. Cùng lúc này, Valjean gặp Fantine (Phăng-tin), một cô gái đang hấp hối sau khi bị đuổi việc khỏi công xưởng của ông và buộc phải làm nghề mại dâm để có tiền nuôi con gái Cosette (Cô-dét), em đang phải sống với gia đình nhà Thénardier (Tê-nác-đi-ê) độc ác. Trước khi Fantine chết, Valjean hứa với cô sẽ chăm sóc Cosette cẩn thận, ông trả tiền cho lão chủ quán trọ Thénardier để giải phóng cho Cosette và cùng em chạy trốn lên Paris khỏi sự truy đuổi của Javert. Ở Paris, hai người trú trong một nhà tu kín mà Javert không được quyền khám xét, vì vậy họ tạm thoát khỏi sự truy lùng gắt gao của viên thanh tra.
Eponine do Julie Lund thủ vai
   
10 năm sau, sau cái chết của tướng Lamarque, người duy nhất trong giới lãnh đạo Pháp có cảm tình với giai cấp lao động, nhóm sinh viên đứng đầu là Enjolras tức giận với chế độ đã chuẩn bị cho một cuộc cách mạng vào đêm ngày mùng 5, rạng sáng mùng 6 tháng 6 năm 1832. Cuộc cách mạng cũng có sự tham gia của những người nghèo khổ, trong đó có cậu bé lang thang Gavroche (Ga-vơ-rốt). Một trong những người tham gia cách mạng là Marius Pontmercy, một sinh viên bị gia đình xa lánh vì quan điểm tự do của mình, anh đã đem lòng yêu Cosette, bây giờ đã trở thành một thiếu nữ hết sức xinh đẹp. Gia đình nhà Thénardier cũng đã chuyển tới Paris, bọn họ dẫn đầu một băng trộm đột nhập nhà của Valjean trong khi Marius đang đến chơi. Tuy nhiên con gái của Thénardier là Éponine cũng đã đem lòng yêu người sinh viên và cô đã thuyết phục bọn trộm rời khỏi đó.
Ngày hôm sau cuộc cách mạng nổ ra, những sinh viên bắt đầu dựng chiến lũy trên những con phố hẹp ở Paris. Khi biết người yêu của Cosette cũng tham gia nổi dậy, Valjean đã gia nhập với họ, bởi vì ông muốn bảo vệ Marius. Éponine cũng đứng vào hàng ngũ khởi nghĩa để bảo vệ Marius và cô đã chết hạnh phúc trên tay Marius sau khi hứng một viên đạn thay anh. Trong trận chiến tiếp theo, Valjean cứu sống Javert khỏi tay những người sinh viên và để viên thanh tra đi. Ông cũng cứu được Marius khi đó đã bị thương, nhưng tất cả những người khác, kể cả Enjolras và Gavroche đều đã bị giết. Valjean vác theo Marius chạy trốn theo những đường cống ngầm ở Paris, khi ra đến miệng cống ông chạm trán Javert, ông cố gắng thuyết phục Javert cho mình thời gian để trả Marius về gia đình của anh. Javert đồng ý đề nghị của Jean và nhận ra rằng ông ta đang bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người mà Valjean đã cho viên thanh tra thấy, Javert cũng hiểu rằng ông không bao giờ có thể nộp Valjean cho chính quyền được nữa. Không thể chịu đựng nổi tình trạng khó xử này, Javert nhảy xuống sông Seine tự vẫn.
Marius và Cosette cưới nhau. Valjean đã mất niềm vui duy nhất của cuộc sống cuối đời vì bây giờ Cosette đã không còn cần đến ông nữa. Cosette bị Marius thuyết phục tránh xa Valjean vì anh cho rằng ông là người có đạo đức tồi. Mãi sau đó khi Valjean đã hấp hối, Marius mới nhận ra được lòng tốt của ông và chạy đến nhà Valjean cùng Cosette. Valjean chỉ còn kịp tiết lộ cho hai người về quá khứ của mình và rằng ông chi là người bố nuôi của Cosette trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Ông cũng đã có niềm hạnh phúc khi ở bên là đứa con gái nuôi yêu quý và con rể. Ông nói với họ rằng ông rất yêu quý họ, sau đó Valjean qua đời.


Nhân vật

  • Jean Valjean (hay ông Madeleine): Một anh thanh niên nghèo phải ăn cắp bánh mỳ về cho gia đình đang chết đói. Anh bị kết án khổ sai và chỉ được thả sau 19 năm ngồi tù nhưng phải mang giấy thông hành màu vàng của người đã từng có tiền án. Cuộc đời Valjean thay đổi sau khi gặp giám mục Myriel, anh hủy giấy thông hành và quyết định làm lại cuộc đời. Valjean có người con gái nuôi là Cosette.
  • Linh mục Myriel (hay quý ngài Bienvenue): Một linh mục già tốt bụng, người đã giúp cho Valjean nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc đời và làm lại nó.
  • Javert: Viên thanh tra cảnh sát bị ám ảnh bởi việc phải bắt bằng được Valjean nhưng luôn vồ hụt con mồi. Cuối cùng thì Valjean cũng có cơ hội giết ông ta nhưng lại thả cho Javert đi. Sau đó Javert đồng ý để Valjean trốn thoát, không chịu nổi việc một kẻ phạm tội lại làm ơn với mình và bản thân lại thả tên tội phạm đã truy lùng bấy lâu, Javert tự tử.
  • Fantine: Công nhân trong công xưởng của ông Madeleine nhưng bị đốc công đuổi việc một cách vô lý. Cô phải hành nghề mại dâm để có tiền nuôi con gái Cosette. Cuối cùng Fantine chết vì bệnh lao mà chưa kịp nhìn thấy mặt con.
  • Eponine: Con gái của Thenardier. Cô yêu say đắm Marius. Sau khi chuyển một bức thư của Marius cho Cosette, cô bị bắn chết. Trong vở nhạc kịch, Eponine là người đã đưa Jean Valjean lên thiên đường.
  • Cosette: Con gái của Fantine, cô được Jean Valjean nuôi dưỡng sau khi mẹ chết. Cô yêu Marius Pontmercy và cưới anh ở cuối tiểu thuyết.
  • Marius Pontmercy: Anh sinh viên tham gia khởi nghĩa, người yêu và sau đó là chồng của Cosette.
  • Vợ chồng nhà Thénardier: Gia đình chủ quán trọ độc ác, nơi Cosette sống khi còn nhỏ.
  • Gavroche: Con trai của Thenardiers, tham gia và chết trong cuộc khởi nghĩa ngày 5 tháng 6 năm 1832.
  • Enjolras: Lãnh đạo của nhóm "Những người bạn của ABC", tham gia cuộc khởi nghĩa ngày 5 tháng 6 năm 1832.
  • Quá trình sáng tác

    Bối cảnh ra đời

    Thần tự do dẫn dắt nhân dân (tranh của Eugène Delacroix, được coi là nguồn cảm hứng cho tác phẩm Những người khốn khổ
    Quan tâm sâu sắc tới mối quan hệ giữa công lý xã hội và phẩm giá con người, từ năm 1829 Victor Hugo đã viết tiểu thuyết Le Dernier Jour d'un condamné (nghĩa là "Ngày phán xử cuối"), một tác phẩm độc thoại và bào chữa chống lại án tử hình. Tiếp đó năm 1834 ông viết tác phẩm Claude Gueux cũng về mối quan hệ giữa công lý và con người. Năm 1845, ông bắt đầu viết một phần của tiểu thuyết mà Hugo dự định đặt tên là Les Misères (Những cảnh khốn cùng). Ông ngừng viết tiểu thuyết này vào tháng 2 năm 1848 nhưng cùng thời kỳ đó lại viết một tác phẩm khác có tên Discours sur la misère (Chuyên khảo về sự khốn cùng - 1849).
    Trong thời gian phải đi tị nạn, sau khi hoàn thành tác phẩm Contemplations năm 1856 và la Légende des siècles năm 1859, Victor Hugo bắt đầu viết hoàn chỉnh tiểu thuyết Les Miserables và xuất bản nó vào năm 1862.

    Động cơ

    Những người khốn khổ vừa là một tiểu thuyết hiện thực, vừa là một tiểu thuyết sử thi, tiểu thuyết xã hội và cũng là một bài ca về tình yêu.
    Trên khía cạnh hiện thực, tiểu thuyết[2], Những người khốn khổ đã miêu tả cả một thế giới của những con người nghèo khổ, đó là bức tranh cực kỳ chân thực về cuộc sống ở nước Pháp nói chung và ở Paris nghèo khổ nói riêng vào nửa đầu thế kỷ 19.
    Trên khía cạnh là một tiểu thuyết sử thi, tác phẩm đã miêu tả ít nhất ba bức tranh chân thực của lịch sử nước Pháp, đó là trận Waterloo, cuộc nổi dậy của những người cộng hòa ở Paris năm 1832 và cuộc chạy trốn trong cống ngầm của Jean Valjean. Tính sử thi của tiểu thuyết cũng thể hiện qua việc miêu tả những xung đột bên trong tâm hồn con người, đó là sự xung đột giữa cái thiện và cái ác bên trong Jean Valjean, đó cũng là sự xung đột trong suy nghĩ của Javert trước sự tôn trọng luật pháp và sự tôn trọng đạo lý con người.
    Những người khốn khổ cũng là tác phẩm ca ngợi tình yêu: Tình yêu đối với các con chiên của linh mục Myriel, tình yêu tuyệt vọng của Fantine và Éponine, tình phụ tử của Jean Valjean với Cosette. Bên cạnh đó, Những người khốn khổ cũng là một trong những tác phẩm hay nhất của văn học Pháp khi thể hiện tình yêu tổ quốc. Trong tâm trạng của một người tị nạn, Victor Hugo đã ghi lại từ trí nhớ và trái tim mình những cảnh vật nước Pháp mà ông yêu quý, đặc biệt là những hình ảnh về Paris, phông nền chính cho cả tác phẩm. Để nuôi dưỡng Cossette, Fantine đã chọn cách kiếm được nhiều tiền nhất có thể: làm điếm, những nhân vật này không chỉ là sản phẩm của thuần túy trí tưởng tượng. Ông là nhà văn có ham muốn tình dục mạnh mẽ và biết thỏa mãn nhu cầu của mình bằng rất nhiều cuộc tình với những phụ nữ khác nhau.[3]
    Tuy nhiên động cơ chính của Hugo khi viết tác phẩm là muốn biến nó thành một bản biện hộ xã hội. "Nếu những người bất hạnh và những kẻ tội phạm bị coi là giống nhau, thì đó là lỗi của ai?". Theo Victor Hugo, đó là lỗi của sự khốn cùng, sự thờ ơ và của một chế độ chỉ biết trấn áp mà không biết thương xót. Là người theo chủ nghĩa lý tưởng, Victor Hugo tin rằng sự dạy dỗ, kèm cặp và tôn trọng từng cá nhân là những vũ khí duy nhất của xã hội để tránh cho những người bất hạnh trở thành tội phạm. Những ý tưởng đó có thể tóm tắt bằng lời tựa của Victor Hugo trong Những người khốn khổ:
    "Khi pháp luật và phong hoá còn đầy đoạ con người, còn dựng nên những địa ngục ở giữa xã hội văn minh và đem một thứ định mệnh nhân tạo chồng thêm lên thiên mệnh; khi ba vấn đề lớn của thời đại là sự tha hoá của đàn ông vì bán sức lao động, sự sa đoạ của đàn bà vì miếng cơm manh áo, sự cằn cỗi của trẻ nhỏ vì tối tăm thất học còn chưa được giải quyết; khi ở một số nơi đời sống còn ngạt thở; nói khác đi và trên quan điểm rộng hơn, khi trên mặt đất, dốt nát và đau khổ còn tồn tại thì những quyển sách như loại này còn có thể có ích."

    Đón nhận của độc giả

    Phản ứng của giới phê bình là khác nhau, nhiều người cho rằng tác phẩm chỉ ở mức bình thường, số khác cho rằng tác phẩm rất cảm động, số nữa lại cho tác phẩm quá ưu ái với những người cách mạng[4]. Anh em Goncourt biểu lộ sự thất vọng khi cho rằng tác phẩm quá hời hợt và giả dối[5]. Gustave Flaubert thì cho rằng chẳng tìm đâu ra chân lý hay tầm quan trọng từ Những người khốn khổ[6]. Charles Baudelaire thì tuy ca ngợi tiểu thuyết của Vitor Hugo[7] trên báo chí nhưng ý kiến cá nhân của ông đây lại là một tiểu thuyết rất dở.
    Tuy vậy, cuốn sách vẫn thu hút được rất đông độc giả và được dịch sang nhiều thứ tiếng khác ngay từ khi mới xuất bản.
    Nhìn chung trong bối cảnh xã hội Pháp lúc bấy giờ khi chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn chưa được điều chỉnh, các cuộc nổi dậy là tất yếu xảy ra. Trong Những người khốn khổ, Hugo đã giành tình thương cảm cho những người Cách mạng nhưng không hoàn toàn tán thành đường lối của họ. Nhân vật trung tâm của tác phẩm là Jean Valjean, qua nhân vật này ông muốn cải tạo xã hội nhân bản hơn qua xây dựng những mẫu người lý tưởng. Vì thế tác phẩm mang màu sắc vừa hiện thực vừa lãng mạn, trái ngược với văn của Honoré de Balzac, Stendhal, Charles Dickens mang màu sắc hiện thực phê phán và có phần bi quan về xã hội (chính xác hơn phê phán để tạo động lực thay đổi) hay văn học cách mạng (Ruồi trâu,...). Tác phẩm đậm chất nhân đạo chủ nghĩa và hướng đến cải tạo xã hội mang màu sắc lãng mạn, khác với trào lưu lãng mạn phổ biến khác như trào lưu theo François-René de Chateaubriand hay Novalis thoát ly thực tại hay hoài cổ.

    Chuyển thể

    Những người khốn khổ là tác phẩm rất nổi tiếng và đã được chuyển thể rất nhiều lần một phần hoặc toàn bộ tiểu thuyết ra các ngôn ngữ khác ( một trong số đó là bản dịch "Những người cùng khổ" và "Những người khốn nạn"), thành các tác phẩm sân khấu và điện ảnh.

    Điện ảnh


    Phim Những người khốn khổ phiên bản 1995 với sự tham gia của Jean-Paul Belmondo
  • 1907, On the barricade, đạo diễn Alice Guy Blaché
  • 1907, Le Chemineau
  • 1909, Les Misérables, đạo diễn J. Stuart Blackton
  • 1911, Les Misérables, đạo diễn Albert Capellani
  • 1913, Les Misérables, đạo diễn Albert Capellani
  • 1913, The Bishop's Candlesticks, đạo diễn Herbert Brenon
  • 1917, Les Misérables, đạo diễn Frank Lloyd
  • 1922, Les Misérables
  • 1923, Aa Mujo, đạo diễn Kiyohiko Ushihara và Yoshinobu Ikeda
  • 1925, Les Misérables, đạo diễn Henri Fescourt
  • 1929, The Bishop's Candlesticks, đạo diễn Norman McKinnell, chuyển thể điện ảnh có tiếng đầu tiên của tác phẩm
  • 1929, Aa mujo, đạo diễn Seika Shiba
  • 1931, Jean Valjean, đạo diễn Tomu Uchida
  • 1934, Les Misérables, đạo diễn Raymond Bernard
  • 1935, Les Misérables, đạo diễn Richard Boleslawski
  • 1937, Gavrosh, đạo diễn Tatyana Lukashevich
  • 1938, Kyojinden, đạo diễn Mansaku Itami
  • 1943, Los Miserables, đạo diễn Renando A. Rovero
  • 1944, El Boassa, đạo diễn Kamal Selim
  • 1947, I Miserabili, đạo diễn Riccardo Freda
  • 1949, Les Nouveaux Misérables, đạo diễn Henri Verneuil
  • 1950, Re mizeraburu: Kami to Akuma, đạo diễn Daisuke Ito
  • 1950, Ezai Padum Pado, đạo diễn K. Ramnoth
  • 1952, Les Misérables, đạo diễn Lewis Milestone
  • 1955, Kundan, đạo diễn Sohrab Modi
  • 1958, Les Misérables, đạo diễn Jean-Paul Le Chanois, hiện xếp thứ 12 trong các phim Pháp ăn khách nhất nước Pháp (9.940.533 lượt xem)
  • 1967, Les Misérables, đạo diễn Alan Bridges
  • 1967, Os Miseráveis
  • 1967, Sefiler
  • 1972, Les Misérables, đạo diễn Marcel Bluwal
  • 1973, Los Miserables, đạo diễn Antulio Jimnez Pons

Sân khấu

Chuyển thể sân khấu nổi tiếng nhất của Những người khốn khổ có lẽ là vở nhạc kịch cùng tên do Claude-Michel Schönberg sáng tác. Đây có lẽ là vở nhạc kịch Pháp nổi tiếng nhất và là một trong những vở nhạc kịch nổi tiếng nhất thế giới. Vào ngày 8 tháng 10 năm 2006, vở diễn kỉ niệm tròn 21 năm ngày ra mắt lần đầu tiên. Những người khốn khổ đang giữ kỷ lục là vở nhạc kịch được diễn liên tục lâu nhất ở sân khấu West End, Luân Đôn[8].


Tham khảo

Liên kết ngoài

********************************************************************

Victor Hugo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Victor Hugo
Sinh 26 tháng 2 năm 1802
Besançon (Franche-Comté), Pháp
Mất 22 tháng 5 năm 1885
Công việc sáng tác thơ, văn, viết kịch bản, vẽ tranh
Trào lưu lãng mạn


Victor Hugo (26 tháng 2, 1802 tại Besançon22 tháng 5, 1885 tại Paris) là một nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch thuộc chủ nghĩa lãng mạn nổi tiếng của Pháp. Ông cũng đồng thời là một nhà chính trị, một trí thức dấn thân tiêu biểu của thế kỷ XIX.
Victor Hugo chiếm một vị trí trang trọng trong lịch sử văn học Pháp. Các tác phẩm của ông đa dạng về thể loại và trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Với tư cách là nhà thơ trữ tình, Hugo đã xuất bản tập Odes et Ballades (1826), Les feuilles d'automne (1931) hay Les Contemplations (1856). Nhưng ông cũng thể hiện vai trò của một nhà thơ dấn thân chống Napoléon III bằng tập thơ Les Châtiments (1853) và vai trò một nhà sử thi với tập La Légende des siècles (1859 và 1877). Thành công vang dội của hai tác phẩm Nhà thờ Đức Bà ParisNhững người khốn khổ khiến Victor Hugo trở thành tiểu thuyết gia của công chúng. Về kịch, ông đã trình bày thuyết kịch lãng mạn trong bài tựa của vở kịch Cromwell (1827) và minh họa rõ nét thể loại này ở hai vở kịch nổi tiếng Hernani (1830) và Ruy Blas (1838).

Victor Hugo đã cống hiến lớn lao cho sự đổi mới thơ ca và sân khấu. Ông được người đương thời ngưỡng mộ nhưng cũng gây ra tranh cãi ở một số tác gia hiện đại. Cuộc lưu đày 20 năm trong đế chế thứ hai của ông đặt ra sự suy ngẫm cho nhiều thế hệ về vai trò của một nhà văn trong đời sống chính trị xã hội.
Những lựa chọn mang tính đạo đức và chính trị của Victor Hugo, cùng với những kiệt tác văn học đã đưa ông trở thành gương mặt nổi bật của thời đại đó. Khi qua đời, Victor Hugo được nhà nước cử lễ quốc tang và thi hài ông được đưa vào điện Panthéon.

Tiểu sử

Victor Marie Hugo là con trai út của vị tướng triều đình Joseph Léopold Sigisbert Hugo (1773-1828) với bà Sophie Trébuchet (1772-1821). Hai người anh lớn của ông là Abel Joseph Hugo (1798-1855) và Eugène Hugo (1800-1837). Năm 1811, Victor cùng với anh trai Eugène được gửi trọ học tại trường Collège des Nobles, Madrid. Khoảng năm 1813, ông về Paris sống với mẹ, lúc này đã chia tay cha ông và đi lại với tướng Victor Fanneau de la Horie. Tháng 9 năm 1815, ông vào trọ học tại trường Cordier. Theo Adèle Hugo, đây là khoảng thời gian mà Victor Hugo bắt đầu làm thơ. Ông tự mày mò học vần và luật. Được mẹ và anh trai ủng hộ, Victor đã tỏ rõ tham vọng lớn lao của mình khi ông viết trong nhật kí lúc mới 14 tuổi: "Tôi muốn trở thành Chateaubriand hoặc không gì cả!".
Tập thơ Odes ra mắt năm 1821 khi ông 19 tuổi, với 1500 ấn bản được tiêu thụ trong vòng 4 tháng. Vua Louis XVIII sau khi chiêm ngưỡng tác phẩm này, đã dành tặng ông một học bổng trị giá một nghìn franc một năm.
Sau khi mẹ ông mất (1821), Victor Hugo làm đám cưới với người bạn gái thời thơ ấu Adèle Foucher. Họ sinh được năm người con:
  • Léopold (1823-1823)
  • Léopoldine (1824-1843)
  • Charles(1826-1871)
  • François-Victor (1828-1873)
  • Adèle (1830-1915)
Victor Hugo có rất nhiều tình nhân, nổi bật trong số đó là mối quan hệ nồng cháy với Juliette Drouet (Julienne Gauvain). Họ gặp nhau lần đầu tiên năm 1833, năm Victor Hugo ra mắt vở kịch Lucrèce Borgia. Juliette vào vai công chúa Négroni, một vai diễn bé nhỏ nhưng để lại ấn tượng mạnh cho khán giả và nhất là cho Victor Hugo. Họ bắt đầu đi lại với nhau. Juliette trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho Victor. Juliette luôn dành cho ông một tình yêu mãnh liệt, một sự chiếm hữu lớn, một tính cách thất thường.
7 tháng 2 năm 1841, Victor Hugo được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp, sau bốn lần thất bại.
Mùa hè năm 1843, ông cùng Juliette đi nghỉ. Tại một quán cà phê ở Rochefort, ông tình cờ nhận được tin dữ thông qua một bài báo: Léopoldine-con gái ông và chồng bị chết đuối trên sông Seine ở vùng Villequier. Sự kiện này đã chấn động dữ dội Victor Hugo.
Năm 1845, Hugo bắt đầu đi vào chính trị. Năm 1848, ông được bầu làm nghị sĩ hội đồng lập hiến. Ông lên án cuộc đảo chính ngày 2 tháng 12 năm 1851 của hoàng tử Louis-Napoléon (cháu của Napoléon Bonaparte). Ngay lập tức, Victor Hugo bị buộc đi đày ở Bỉ, sau đó là đảo Jersey và Guernesey.
Trong khoảng thời gian sống lưu vong, Hugo vẫn không ngừng sáng tác. Ông cho ra đời các tập thơ: les Châtiments (1853), les Contemplations (1856) và hoàn thành tiểu thuyết les Misérables (1862) - tác phẩm được công chúng đón nhận nồng nhiệt.
Sau khi nền cộng hòa Pháp được thiết lập năm 1870, Victor Hugo trở về Paris.
Ngày 8 tháng 2 năm 1871, ông được bầu vào quốc hội Pháp.
Năm 1876, ông được bầu làm thượng nghị sĩ. Những tham luận đầu tiên của ông hướng đến sự ân xá cho các chiến sĩ công xã Paris.
Ngày 22 tháng 5 năm 1855, Victor Hugo qua đời vì sung huyết phổi. Hai triệu người dân đã đưa tiễn ông đến điện Panthéon.

Tác phẩm

Kịch

  • Cromwell (1827)
  • Hernani (1830)
  • Marion Delorme (1831)
  • Le Roi s'amuse (1832)
  • Lucrèce Borgia (1833)
  • Marie Tudor (1833)
  • Angelo, tyran de Padoue (1835)
  • Ruy Blas (1838)
  • Les Burgraves (1843)
  • Torquemada (1882)
  • Théâtre en liberté (1886)

Tiểu thuyết


Thơ


Victor Hugo khi còn trẻ (không biết ngày vẽ)
  • Odes et poésies diverses (1822)
  • Nouvelles Odes (1824)
  • Odes et Ballades (1826)
  • Les Orientales (1829)
  • Les Feuilles d’automne (1831)
  • Les Chants du crépuscule (1835)
  • Les Voix intérieures (1837)
  • Les Rayons et les ombres (1840)
  • Les Châtiments (1853)
  • Les Contemplations (1856)
  • Première série de la Légende des Siècles (1859)
  • Les Chansons des rues et des bois (1865)
  • L'Année terrible (1872)
  • L'Art d'être grand-père (1877)
  • Nouvelle série de la Légende des Siècles (1877)
  • Religions et religion (1880)
  • Les Quatre Vents de l'esprit (1881)
  • Série complémentaire de la Légende des Siècles (1883)
  • La Fin de Satan (1886)
  • Toute la Lyre (1888)
  • Dieu (1891)
  • Toute la Lyre - nouvelle série (1893)
  • Les Années funestes (1898)
  • Dernière Gerbe (1902)
  • Océan. Tas de pierres (1942)

Tác phẩm khác

Mặt Trời Lặn (1853–1855)
Bạch tuộc và những cái xúc tu (1866)
  • Étude sur Mirabeau (1834)
  • Littérature et philosophie mêlées (1834)
  • Le Rhin (1842)
  • Napoléon le Petit (pamphlet, 1852)
  • Lettres à Louis Bonaparte (1855)
  • William Shakespeare (1864)
  • Paris-Guide (1867)
  • Mes Fils (1874)
  • Actes et paroles - Avant l'exil (1875)
  • Actes et paroles - Pendant l'exil (1875)
  • Actes et paroles - Depuis l'exil (1876)
  • Histoire d'un crime - 1re partie (1877)
  • Histoire d'un crime - 2e partie (1878)
  • Le Pape (1878)
  • L'Âne (1880)
  • L'Archipel de la Manche (1883)
  • Œuvres posthumes
  • Choses vues - 1re série (1887)
  • Alpes et Pyrénées (1890)
  • France et Belgique (1892)
  • Correspondances - Tome I (1896)
  • Correspondances - Tome II (1898)
  • Choses vues - 2e série (1900)
  • Post-scriptum de ma vie (1901)
  • Mille Francs de récompense (1934)
  • Pierres (1951)
  • Mélancholia

Chú thích

  • Afran, Charles (1997). “Victor Hugo: French Dramatist”. Website: Discover France. (Originally published in Grolier Multimedia Encyclopedia, 1997, v.9.0.1.) Retrieved November 2005.
  • Bates, Alfred (1906). “Victor Hugo”. Website: Theatre History. (Originally published in The Drama: Its History, Literature and Influence on Civilization, vol. 9. ed. Alfred Bates. London: Historical Publishing Company, 1906. pp. 11–13.) Retrieved November 2005.
  • Bates, Alfred (1906). “Hernani”. Website: Theatre History. (Originally published in The Drama: Its History, Literature and Influence on Civilization, vol. 9. ed. Alfred Bates. London: Historical Publishing Company, 1906. pp. 20–23.) Retrieved November 2005.
  • Bates, Alfred (1906). “Hugo’s Cromwell”. Website: Theatre History. (Originally published in The Drama: Its History, Literature and Influence on Civilization, vol. 9. ed. Alfred Bates. London: Historical Publishing Company, 1906. pp. 18–19.) Retrieved November 2005.
  • Bittleston, Misha (uncited date). "Drawings of Victor Hugo". Website: Misha Bittleston. Retrieved November 2005.
  • Burnham, I.G. (1896). “Amy Robsart”. Website: Theatre History. (Originally published in Victor Hugo: Dramas. Philadelphia: The Rittenhouse Press, 1896. pp. 203–6, 401-2.) Retrieved November 2005.
  • Columbia Encyclopedia, 6th Edition (2001-05). “Hugo, Victor Marie, Vicomte”. Website: Bartleby, Great Books Online. Retrieved November 2005. Retrieved November 2005.
  • Haine, W. Scott (1997). “Victor Hugo”. Encyclopedia of 1848 Revolutions. Website: Ohio University. Retrieved November 2005.
  • Illi, Peter (2001-2004). “Victor Hugo: Plays”. Website: The Victor Hugo Website. Retrieved November 2005.
  • Karlins, N.F. (1998). "Octopus With the Initials V.H." Website: ArtNet. Retrieved November 2005.
  • Liukkonen, Petri (2000). “Victor Hugo (1802-1885)”. Books and Writers. Website: Pegasos: A Literature Related Resource Site. Retrieved November 2005.
  • Meyer, Ronald Bruce (2004). “Victor Hugo”. Website: Ronald Bruce Meyer. Retrieved November 2005.
  • Robb, Graham (1997). “A Sabre in the Night”. Website: New York Times (Books). (Excerpt from Graham, Robb (1997). Victor Hugo: A Biography. New York: W.W. Norton & Company.) Retrieved November 2005.
  • Roche, Isabel (2005). “Victor Hugo: Biography”. Meet the Writers. Website: Barnes & Noble. (From the Barnes & Noble Classics edition of The Hunchback of Notre Dame, 2005.) Retrieved November 2005.
  • Uncited Author. “Victor Hugo”. Website: Spartacus Educational. Retrieved November 2005.
  • Uncited Author. “Timeline of Victor Hugo”. Website: BBC. Retrieved November 2005.
  • Uncited Author. (2000-2005). “Victor Hugo”. Website: The Literature Network. Retrieved November 2005.
  • Uncited Author. "Hugo Caricature". Website: Présence de la Littérature a l’école. Retrieved November 2005.

Đọc thêm

  • Barbou, Alfred (1882). Victor Hugo and His Times. University Press of the Pacific: 2001 paper back edition. Book sources
  • Barnett, Marva A., ed. (2009). Victor Hugo on Things That Matter: A Reader. New Haven, CT: Yale University Press. Book sources
  • Brombert, Victor H. (1984). Victor Hugo and the Visionary Novel. Boston: Harvard University Press. Book sources
  • Davidson, A.F. (1912). Victor Hugo: His Life and Work. University Press of the Pacific: 2003 paperback edition. Book sources
  • Dow, Leslie Smith (1993). Adele Hugo: La Miserable. Fredericton: Goose Lane Editions. Book sources
  • Falkayn, David (2001). Guide to the Life, Times, and Works of Victor Hugo. University Press of the Pacific. Book sources
  • Feller, Martin, Der Dichter in der Politik. Victor Hugo und der deutsch-französische Krieg von 1870/71. Untersuchungen zum französischen Deutschlandbild und zu Hugos Rezeption in Deutschland. Doctoral Dissertation, Marburg 1988.
  • Frey, John Andrew (1999). A Victor Hugo Encyclopedia. Greenwood Press. Book sources
  • Grant, Elliot (1946). The Career of Victor Hugo. Harvard University Press. Out of print.
  • Halsall, A.W. et al. (1998). Victor Hugo and the Romantic Drama. University of Toronto Press.Book sources
  • Hart, Simon Allen (2004). Lady in the Shadows: The Life and Times of Julie Drouet, Mistress, Companion and Muse to Victor Hugo. Publish American. Book sources
  • Houston, John Porter (1975). Victor Hugo. New York: Twayne Publishers. Book sources
  • Hovasse, Jean-Marc (2001), Victor Hugo: Avant l'exil. Paris: Fayard. Book sources
  • Hovasse, Jean-Marc (2008), Victor Hugo: Pendant l'exil I. Paris: Fayard. Book sources
  • Ireson, J.C. (1997). Victor Hugo: A Companion to His Poetry. Clarendon Press. Book sources
  • Laster, Arnaud (2002). Hugo à l'Opéra. Paris: L'Avant-Scène Opéra, no. 208.
  • Maurois, Andre (1956). Olympio: The Life of Victor Hugo. New York: Harper & Brothers.
  • Maurois, Andre (1966). Victor Hugo and His World. London: Thames and Hudson. Out of print.
  • Pouchain, Gérard and Robert Sabourin (1992). Juliette Drouet, ou, La dépaysée. Paris: Fayard. Book sources
  • Robb, Graham (1997). Victor Hugo: A Biography. W.W. Norton & Company: 1999 paperback edition. Book sources, (description/reviews at wwnorton.com)
  • Tonazzi, Pascal (2007) Florilège de Notre-Dame de Paris (anthologie) Paris, Editions Arléa ISBN 2-86959-795-9

Liên kết ngoài


Danh ngôn của Victor Hugo


Tương lai có rất nhiều tên: Với kẻ yếu, nó là Điều không thể đạt được. Đối với người hay sợ hãi, nó là Điều chưa biết. Với ai dũng cảm, nó là Cơ hội.
The future has many names: For the weak, it means the unattainable. For the fearful, it means the unknown. For the courageous, it means opportunity.



Cái người đời thường thiếu là ý chí chứ không phải là sức mạnh.
People do not lack strength; they lack will.


Niềm tin cần thiết cho con người. Thật thống khổ cho ai không tin tưởng.
A faith is a necessity to a man. Woe to him who believes in nothing.


Tha thứ là tôn giáo tuyệt vời nhất.
Toleration is the best religion.


Âm nhạc thể hiện những điều không thể nói nhưng cũng không thể lặng câm.
Music expresses that which can not be said and on which it is impossible to be silent.


Có những người cha không yêu con; nhưng chẳng có người ông nào không yêu cháu.
There are fathers who do not love their children; there is no grandfather who does not adore his grandson.


Bất hạnh làm nên con người, giàu sang tạo nên quái vật.
Adversity makes men, and prosperity makes monsters.


Làm thế nào mà môi họ gặp nhau? Làm thế nào mà chim hót, tuyết tan, hoa hồng nở và bình minh bừng sáng sau những hàng cây ảm đạm trên đỉnh đồi đang run rẩy? Một nụ hôn, và chỉ vậy thôi.
How did it happen that their lips came together? How does it happen that birds sing, that snow melts, that the rose unfolds, that the dawn whitens behind the stark shapes of trees on the quivering summit of the hill? A kiss, and all was said.


Nụ cười của sự vui mừng gần nước mắt hơn là tiếng cười.
Joy's smile is much closer to tears than laughter.


Hòa bình là đức hạnh của nhân loại. Chiến tranh là tội ác.
Peace is the virtue of civilization. War is its crime.


Người chìm trong suy nghĩ không phải là người nhàn rỗi. Có sự lao động hữu hình, và có sự lao động vô hình.
A man is not idle because he is absorbed in thought. There is a visible labor and there is an invisible labor.



Hạnh phúc lớn nhất ở đời là có thể tin chắc rằng ta được yêu thương - yêu vì chính bản thân ta, hay đúng hơn, yêu bất kể bản thân ta.
The greatest happiness of life it the conviction that we are loved - loved for ourselves, or rather, loved in spite of ourselves.


Thận trọng là đứa con trưởng của sự khôn ngoan.
Caution is the eldest child of wisdom.


Khi một người phụ nữ đang nói, hãy nghe điều nàng nói qua đôi mắt của nàng.
When a woman is talking to you, listen to what she says with her eyes.


Yêu cái đẹp là thấy ánh sáng.
To love beauty is to see light.


Ở ngôi đền Tình bạn, đừng bao giờ nói từ chết; hãy để ly rượu tình bạn không bao giờ cạn.
At the shrine of friendship never say die, let the wine of friendship never run dry.


Địa ngục thông minh còn hơn thiên đường ngu dốt.
An intelligent hell would be better than a stupid paradise.


Tiếng cười là mặt trời đuổi mùa đông khỏi gương mặt con người.
Laughter is the sun that drives winter from the human face.


Cứ thử đi, ngươi không thể hủy diệt di tích vĩnh hằng của trái tim con người, tình yêu.
Try as you will, you cannot annihilate that eternal relic of the human heart, love.


Những lỗi lầm lớn thường kết cấu từ những lỗi lầm nhỏ.
Great bundlers are opt made, like large ropes, of a multitude of fibres.


Hành động làm nên ta, hoặc làm hỏng ta, chúng ta là kết quả hành vi của bản thân.
Our acts make or mar us, we are the children of our own deeds.


Cuộc đời là đóa hoa mà tình yêu là mật ngọt.
Life is a flower of which love is the honey.


Bốn mươi là tuổi già của lớp trẻ; năm mươi là tuổi trẻ của lớp già.
Forty is the old age of youth; fifty the youth of old age.


Hy vọng là từ Chúa đã viết lên lông mày mỗi người.
Hope is the word which God has written on the brow of every man.


Chẳng có gì như một giấc mơ tạo dựng tương lai.
There is nothing like a dream to create the future.


Ngôn từ mạnh mẽ và chua chát cho thấy một động cơ yếu ớt.
Strong and bitter words indicate a weak cause.


Thói quen là người vú nuôi của sai lầm.
Habit is the nursery of errors.


Chủ động là làm điều đúng mà không cần phải bảo.
Initiative is doing the right thing without being told.


Tình yêu là gì? Ta gặp trên đường một chàng trai trẻ đang yêu. Mũ chàng cũ, áo chàng sờn, rách lòi cả khuỷu, nước thấm vào giày chàng, nhưng tinh tú thấm vào hồn chàng.
What is love? I have met in the streets a very poor young man who was in love. His hat was old, his coat worn, his cloak was out at the elbows, the water passed through his shoes and the stars through his soul.


Nội chiến ư? Điều đó có nghĩa gì? Liệu có cuộc chiến ngoại bang nào không? Chẳng phải cuộc chiến nào cũng diễn ra giữa người với người, giữa những người anh em hay sao?
Civil war? What does that mean? Is there any foreign war? Isn't every war fought between men, between brothers?


Không có đất nước nào nhỏ bé. Sự vĩ đại của một dân tộc không được quyết định bởi số người, cũng như sự vĩ đại của một người không được đo bằng chiều cao của anh ta.
There is no such thing as a little country. The greatness of a people is no more determined by their numbers than the greatness of a man is by his height.


Lời khen giống như một nụ hôn qua tấm mạng.
A compliment is like a kiss through a veil.


Không có quân đội nào có thể đứng vững trước sức mạnh của một tư tưởng đã chín muồi.
No army can withstand the strength of an idea whose time has come.



Khi nào bạn anh bắt đầu khen anh trông thật trẻ, anh có thể tin chắc rằng họ nghĩ anh đã già rồi.
Whenever a man's friends begin to compliment him about looking young, he may be sure that they think he is growing old.


Sự tàn bạo của tiến bộ được gọi là cách mạng. Khi chúng kết thúc, ta nhận ra loài người đã bị đối xử thật thô bạo, nhưng đã tiến lên.
The brutalities of progress are called revolutions. When they are over we realize this: that the human race has been roughly handled, but that it has advanced.


Người ta có thể chống lại sự xâm chiếm của một đạo quân, nhưng không thể chống lại sự xâm chiếm của tư tưởng.
One can resist the invasion of an army but one cannot resist the invasion of ideas.


Có những lúc tư tưởng là lời cầu nguyện. Có những lúc linh hồn quỳ gối dù cơ thể ở bất cứ tư thế nào.
There are thoughts which are prayers. There are moments when, whatever the posture of the body, the soul is on its knees.


Tư tưởng là sự lao động của trí tuệ, còn mơ màng là lạc thú.
Thought is the labour of the intellect, reverie is its pleasure.


Thật đáng yêu khi sự thanh nhã kết hợp với những nếp nhăn. Có buổi mình minh không thể nêu tên trong tuổi già hạnh phúc.
When grace is joined with wrinkles, it is adorable. There is an unspeakable dawn in happy old age.


 Nguồn : http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/88/itemid/443/search/victor-hugo/default.aspx


Victor Hugo

(26/2/1802 - 22/5/1885)
www.tudiendanhngon.vn - Danh nhân - Victor Hugo
Sinh ngày 26/2/802, mất ngày 22/5/1885, cuộc đời Hugo đã trải qua những biến động lớn lao của lịch sử nước Pháp: Cách mạng vô sản năm 1848, chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870, Công xã Paris năm 1871...
Như một người chép sử bằng thơ, kịch, phê bình văn học, tiểu thuyết, Victor  Hugo đã có công phản ánh trung thực những bước chuyển mình vĩ đại của lịch sử của đất nước. Cái "bóng" của ông đã "tỏa" rợp khu vườn nghệ thuật toàn thế giới. Trong hơn 60 năm cầm bút sáng tác, ông đã viết nên 45 tác phẩm, trong đó có những cuốn được cả thế giới ngưỡng mộ...
Như nhiều đại văn hào, từ thời trai trẻ Victor Hugo đã thử sức mình ở khắp các "địa hạt" văn chương: Thơ, kịch, phê bình văn học, tiểu thuyết. Hugo phát lộ tài thơ từ khi 15 tuổi,  bằng khen của Viện Hàn lâm Pháp và giải nhất kỳ thi thơ toàn quốc. Song, hình như thơ chưa đủ để tên tuổi Hugo tỏa sáng. Vì vậy, ông chuyển sang sáng tác kịch bản với hy vọng những buổi trình diễn qui mô lớn những vở kịch ở thủ đô hoa lệ sẽ làm tên tuổi ông bừng sáng.
Năm 1830, Hugo viết kịch bản lịch sử "Cromwell", bao gồm các yếu tố bi - hài, tầm thường - cao cả, trong nguyên tắc của thời gian, nơi chốn và hành động. "Cái xấu bên cạnh cái đẹp, cái quái dị đi sát với cái tốt, đẹp và xấu cùng tồn tại, ánh sáng và bóng tối cùng song hành". Ba năm sau đó, Victor Hugo tiếp tục đưa ra trình diễn vở "Trận chiến Hernani", như một lời tuyên chiến không khoan nhượng với trường phái cổ điển.
Theo lịch, ngày 25/2/1830, vở "Trận chiến Hernani" sẽ được công diễn tại Nhà hát Kịch Paris. Những người theo trường phái bảo thủ đã tung tiền mua tất cả số vé bán ra hòng làm cho buổi diễn "Trận chiến Hernani" không có khán giả. Ông chủ nhà hát lo lắng, đề nghị Hugo thuê người cổ vũ. Tin vào sức hấp dẫn của vở kịch, Hugo đã từ chối lời đề nghị đó. Nhưng để đối phó lại phái bảo thủ, Hugo đã in ra một loại vé đặc biệt: tấm vé màu đỏ với chữ "Thép" in đậm. Ông tin tưởng những thanh niên cầm tấm vé đặc biệt đó sẽ tạo thành "đội quân thép" bảo vệ cho đêm diễn suôn sẻ. Một số thành viên của "đội quân thép" còn viết cả lời di chúc vào tấm vé, bày tỏ quyết tâm bảo vệ đêm diễn được thành công.
Trước giờ mở màn, "đội quân thép" đã hàng ngũ chỉnh tề trước cửa rạp. Những người thuộc phái bảo thủ cũng chẳng vừa. Họ đã khoét sẵn mấy chiếc lỗ trên trần nhà hát, âm mưu xả một lượng lớn rác thải xuống đầu "đội quân thép". Trong suốt đêm diễn đầu tiên, lời thoại của diễn viên bị trộn lẫn tiếng la ó, chửi bới, than thở, chê bai, khen ngợi... tạo thành mớ âm thanh hỗn độn. Vượt qua thử thách đêm diễn đầu tiên, "Trận chiến Hernani" được trình diễn 45 đêm liền giữa lòng thủ đô Paris hoa lệ, đánh dấu sự thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa lãng mạn. "Trận chiến Hernani"sau này đã được nhà soạn nhạc danh tiếng người Italia Giuseppe Verdi dựa theo đó sáng tác ra nhạc kịch bất hủ "Hernani".
Hugo cho biết, ông viết kịch vì hai lý do. Thứ nhất, ông cần một diễn đàn để trình bày các quan điểm chính trị - xã hội; thứ hai, vì người tình tên là Juliette - một diễn viên kịch nói trẻ tuổi và nổi tiếng xinh đẹp. Mong muốn người tình có cơ hội tỏa sáng trên sân khấu, Hugo đã sáng tác cho cô khá nhiều vở kịch đưa vào dàn dựng. Song Juliette là người có sắc mà không có tài, nên một thời gian sau khi quen Hugo, cô đã từ bỏ sân khấu và trở thành người tình trung thành, một thư ký và một người bạn du lịch cùng với nhà văn. Mối tình của hai người đã trở nên sâu nặng và bền lâu cho tới tận khi Juliette qua đời.
Juliette không phải là người phụ nữ đầu tiên, cũng không phải là người phụ nữ cuối cùng trong cuộc đời của Hugo. Hugo lấy vợ rất sớm, từ khi 20 tuổi. Vợ ông là cô bạn hàng xóm từ thuở thiếu thời: Adele Foucher. Vì Foucher mà Hugo luôn mơ trở thành nhà văn nổi tiếng, có nhiều tác phẩm bán chạy để có tiền cưới cô làm vợ. Adele Foucher là một cô gái hiền thục, văn hay, vẽ giỏi. Khi biết chồng có mối tình ngoài hôn nhân với Juliett và sau đó với một mệnh phụ phu nhân quyền quý tên là Dolusai - người thường chép sạch sẽ các bản thảo cho nhà văn, dẫu trong lòng tột cùng đau khổ, Adele Foucher vẫn âm thầm chịu đựng để gia đình không đổ vỡ, để bốn người con của bà không rơi vào cảnh thiếu cha. Khi Adele Foucher qua đời, Hugo rơi vào tình trạng đau khổ  và dằn vặt một thời gian dài...
Nhiều nhà văn thế giới cho rằng, cuốn "Nhà thờ Đức Bà Paris" mang vinh quang tới cho tác giả còn hơn tất cả các tập thơ đã có của ông. Là người chịu ảnh hưởng sâu sắc của nhà văn Anh Walter Scott, năm 27 tuổi, Hugo nảy sinh ý định viết "Nhà thờ Đức Bà Paris". "Một tác phẩm văn học phải là một công trình của trí tưởng tượng, của các biến đổi và những điều dị thường" - với quan niệm như vậy, trong khoảng thời gian bốn năm, Hugo đã hoàn thành tác phẩm đồ sộ, gồm 11 quyển, dày hơn 600 trang. Bằng trí tưởng tượng trác việt, bản tính hóm hỉnh và thông minh, Hugo đã dẫn người đọc đi ngược dòng lịch sử, đến với một trong những nơi linh thiêng nhất: Nhà thờ Đức Bà Paris.
Cùng với ngôi nhà thờ thâm nghiêm, huyền bí, những thói tục kỳ quặc, luật lệ man rợ... là đủ các hạng người của một xã hội phong kiến thu nhỏ: một nhà thơ nhu nhược, thích sống bằng ảo mộng; một thầy tu lạnh lùng, độc ác; một anh gù kéo chuông bị số phận bạc đãi đến mức vừa  chột, vừa thọt, vừa điếc. Nhưng bù lại anh Gù có một tấm lòng vàng, biết cách yêu và biết chết vì người yêu. Một chàng sĩ quan đẹp trai, nhưng hời hợt, nhẫn tâm đến độ độc ác; một nàng Exmêranđa cực kỳ xinh đẹp, trong trắng, thơ ngây một lòng một dạ với người tình... Nàng đã khêu gợi tình yêu cho nhiều người và tự mình cũng yêu cuồng nhiệt. Giữa họ đã nảy sinh tình yêu tay tư, tạo thành một vòng tròn đuổi bắt, mang tới bất hạnh nhiều hơn vui sướng.
Gã thầy tu bất chấp tất cả mọi điều cấm kị để yêu Exmêranđa, nhưng khi bị nàng từ chối, y thà để nàng chết dưới giá treo cổ, còn hơn để một người đàn ông nào khác có được nàng. Nhà thơ nhu nhược trả ơn cứu mạng của Exmêranđa bằng cách dẫn đường cho gã thầy tu độc ác bắt nàng. Anh chàng sĩ quan - người đàn ông duy nhất được Exmêranđa yêu, nhẫn tâm bỏ rơi nàng, đến với người đàn bà khác. Chỉ riêng anh Gù là dũng cảm "cướp tù", mang Exmêranđa "tị nạn" trong nhà thờ Đức Bà, dùng đủ mọi cách giành giật nàng khỏi lưỡi hái của tử thần... Kết cục của mối tình tay tư đó thật bi thảm! Nàng Exmêranđa bị treo cổ, gã thầy tu bị anh Gù đẩy từ tháp chuông nhà thờ rơi xuống chết tươi. Hai năm sau đó người ta tìm thấy bộ xương của anh Gù trong căn hầm chứa xác ở Môngphôcông, trong tư thế ôm ghì lấy bộ xương của Exmêranđa...
Được biết, Victor Hugo viết "Nhà thờ Đức Bà Paris" từ nỗi ám ảnh khi một lần ông tận mắt chứng kiến cảnh một cô gái trẻ phạm tội ăn cắp bị treo cổ. Trong lúc cô gái đang giãy giụa trong chiếc thòng lọng mỗi lúc một thêm thít chặt hơn, một gã đàn ông lạnh lùng cầm chiếc dùi sắc nung đỏ gí vào da thịt cô. Tiếng cháy xèo xèo của da thịt cùng tiếng kêu la thảm thiết của cô gái đã thúc ép nhà văn phải viết một cái gì đó để bãi bỏ hình thức giết người dã man bằng giá treo cổ. Trong "Nhà thờ Đức Bà Paris", Hugo đã dùng cái chết oan nghiệt của Exmêranđa cùng hình ảnh ghê rợn của giảo đài Môngphôcông làm yêu sách đòi bãi bỏ tội tử hình.
Năm 1851 lịch sử nước Pháp lại trải qua cơn biến động. Louis Napoléon hủy bỏ nền Cộng hòa, thành lập nền Đế chế, tự xưng là Vua Napoléon III. Vì gọi  Napoléon III là "vị vua bé nhỏ", Hugo bị nhà vua ra lệnh truy nã, phải sống lưu vong trong ngót hai chục năm trời. Trong những năm tháng đó, Hugo đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết ông dự định viết trước đó mấy năm, cuốn "Những người khốn khổ", dày mấy ngàn trang. "Những người khốn khổ" lên án các loại "địa ngục trần gian" với một thông điệp cho mọi thời đại: "Sự nghèo khó làm cho đàn ông gục ngã, đói khổ làm đàn bà sa đọa, đen tối làm trẻ em suy nhược. Xã hội của con người còn ngột ngạt khi mà sự ngu dốt và nghèo khó còn tồn tại trên mặt đất!". Ngay từ đầu, "Những người khốn khổ" được thừa nhận là cuốn tiểu thuyết của thế kỷ và được dịch sang nhiều ngôn ngữ.
Năm Hugo 80 tuổi, nước Pháp long trọng tổ chức lễ thượng thọ cho ông và đổi tên đại lộ D'Eylau thành đại lộ Victor Hugo. Trước khi lìa xa nhân thế, Hugo di chúc lại: "Tôi cho các kẻ nghèo 50.000 quan. Tôi ước mong được mang tới nghĩa trang trong quan tài của người nghèo khó. Tôi từ chối các lời cầu nguyện của tất cả các nhà thờ. Tôi tin tưởng nơi Thượng đế"... Nhưng trên thực tế, nước Pháp đã tổ chức quốc tang cho ông. Hơn hai triệu người dân Pháp đã đến tỏ lòng thương xót ông. Thi hài ông được đặt tại điện Panthenon - nơi an nghỉ của các vĩ nhân.


+++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++++












*********************************************************
The 25th Anniversary Special  : LES MISERABLES OPERA .

 




====================================================================



NHẠT NHÒA HẠT MƯA THU .



*************************************************************









Những hạt mưa hồng tí tách rơi
Ráng vàng mây nhuộm cả bầu trời
Chiều nay gió xuống nhanh trên phố
Chờ tóc em dài hát lả lơi .



Mưa rơi thật chậm con đường vắng
Áo lụa mơ bay một thoáng vui
Lá khô theo gió vơi niềm nhớ
Nhòa nhạt mưa thu ướt mắt môi .





Nhớ chiều thu mưa trên phố .
Trần hồng Cơ
28/09/2012








Xem tiếp


Vườn THƠ VĂN 1 .

Vườn THƠ VĂN 2 .

Vườn THƠ VĂN 3 .

Vườn THƠ VĂN 4 . 

Vườn THƠ VĂN 5 .



------------------------------------------------------------------------------------------- 
 Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic. 
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas. 
 Albert Einstein .


====================================================================





Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét