DANH NGÔN VỀ TOÁN HỌC
26-10-2011
Thậm chí ngay cả trong trò chơi của con trẻ cũng có những điều khiến nhà toán học vĩ đại nhất phải quan tâm.
Even in the games of children there are things to interest the greatest mathematician.
Even in the games of children there are things to interest the greatest mathematician.
Gottfried Wilhelm Leibniz
~*~
Mỗi vấn đề tôi giải quyết trở thành quy luật được sử dụng sau đó để giải quyết các vấn đề khác.
Each problem that I solved became a rule, which served afterwards to solve other problems.
Each problem that I solved became a rule, which served afterwards to solve other problems.
Rene Descartes
~*~
Số hoàn hảo giống như người hoàn hảo, rất hiếm có.
Perfect numbers like perfect men are very rare.
Perfect numbers like perfect men are very rare.
Rene Descartes
~*~
Số nguyên tố là để nhân chứ không phải để cộng.
Prime numbers are meant to be multiplied, not added.
Lev Landau
~*~
Những nhà toán học chúng tôi tất cả đều hơi điên rồ.
We mathematicans are all a bit crazy.
We mathematicans are all a bit crazy.
Lev Landau
~*~
Tinh hoa của toán học nằm ở tự do của nó.
The essence of mathematics lies in its freedom.
The essence of mathematics lies in its freedom.
Georg Cantor
~*~
Trong toán học, nghệ thuật nêu vấn đề có giá trị cao hơn việc giải quyết nó.
In mathematics the art of proposing a question must be held of higher value than solving it.
In mathematics the art of proposing a question must be held of higher value than solving it.
Georg Cantor
~*~
Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
Albert Einstein
~*~
Chính trị chỉ cho hiện tại, nhưng phương trình là mãi mãi.
Politics is for the present, but an equation is for eternity.
Politics is for the present, but an equation is for eternity.
Albert Einstein
~*~
Đừng lo lắng về khó khăn của bạn trong toán học, tôi đảm bảo với bạn rằng những khó khăn toán học của tôi còn gấp bội.
Do not worry about your difficulties in Mathematics. I can assure you mine are still greater.
Do not worry about your difficulties in Mathematics. I can assure you mine are still greater.
Albert Einstein
~*~
Quy luật của toán học càng liên hệ tới thực tế càng không chắc chắn, và càng chắc chắn thì càng ít liên hệ tới thực tế.
As far as the laws of mathematics refer to reality, they are not certain, and as far as they are certain, they do not refer to reality.
As far as the laws of mathematics refer to reality, they are not certain, and as far as they are certain, they do not refer to reality.
Albert Einstein
Nếu có một bài toán bạn không giải được thì chắc chắn cũng có một bài toán khác dễ hơn mà bạn có thể giải được. Hãy tìm nó.
George Polya
Nếu được sống thêm một cuộc đời nữa, tôi lại làm Toán.
Siméon Denis Poisson
Sức hấp dẫn của Toán học mãnh liệt đến nỗi tôi bắt đầu xao lãng các môn học khác.
Sofia Vasilyevna Kovalevskaya
Không có bài toán nào không giải được. Chúng ta phải biết và sẽ biết.
David Hilbert
Sofia Vasilyevna Kovalevskaya
Không có bài toán nào không giải được. Chúng ta phải biết và sẽ biết.
David Hilbert
Trong Toán học không có con đường nào dành riêng cho hoàng gia cả.
Eucilde
Con đường duy nhất để học Toán là làm Toán.
George Polya
Giữa những bộ óc thông minh ngang nhau và trong những điều kiện tương tự, ai có tinh thần HÌNH HỌC thì người đó sẽ thắng và thu được một cường lực hoàn toàn mới mẻ.
BLAISE PASCAL
Mọi phát kiến của nhân loại đều có bàn tay hướng dẫn của Toán học, bởi vì chúng ta không thể có một người chỉ đường nào khác.
CHARLES DARWIN
Toán học là một công cụ đặc biệt thích hợp để làm việc với các khái niệm trừu tượng và sức mạnh của nó trong lãnh vực này là vô tận.
Toán học là một công cụ đặc biệt thích hợp để làm việc với các khái niệm trừu tượng và sức mạnh của nó trong lãnh vực này là vô tận.
PAUL ADRIEN MAURICE DIRAC
Toán học là bảo vật quý giá hơn bất cứ thứ gì khác mà chúng ta được thừa hường từ kho tàng tri thức của nhân loại.
RENE DESCARTES
Toán học là cánh cửa và là chìa khóa để đi vào các ngành khoa học khác.
ROGER BACON
Giá trị của một bài toán không phải là nó được giải như thế nào mà là nó đã thúc đẩy việc tìm ra lời giải như thế nào.
Toán học là bảo vật quý giá hơn bất cứ thứ gì khác mà chúng ta được thừa hường từ kho tàng tri thức của nhân loại.
RENE DESCARTES
Toán học là cánh cửa và là chìa khóa để đi vào các ngành khoa học khác.
ROGER BACON
Giá trị của một bài toán không phải là nó được giải như thế nào mà là nó đã thúc đẩy việc tìm ra lời giải như thế nào.
I.N.HERSTEIN
Đừng quá lo lắng về những khó khăn bạn gặp phải trong Toán học. Tôi dám chắc tôi còn gặp nhiều khó khăn hơn bạn.
Đừng quá lo lắng về những khó khăn bạn gặp phải trong Toán học. Tôi dám chắc tôi còn gặp nhiều khó khăn hơn bạn.
ALBERT EINSTEIN
Toán học có cội rễ sâu xa trong đời sống hàng ngày và là nền tảng của mọi tiến bộ kĩ thuật.
Toán học có cội rễ sâu xa trong đời sống hàng ngày và là nền tảng của mọi tiến bộ kĩ thuật.
N.A.Court
If I feel unhappy, I do mathematics to become happy. If I am happy, I do mathematics to keep happy.
If I feel unhappy, I do mathematics to become happy. If I am happy, I do mathematics to keep happy.
Turan
Life is boring without two things, discovering Mathematics and teaching mathematics.
Life is boring without two things, discovering Mathematics and teaching mathematics.
Pascal
Không có gì hủy hoại những khả năng toán học bằng thói quen tiếp nhận những phương pháp giải có sẵn mà không hề tự hỏi vì sao cần giải đúng như thế và làm thế nào để có thể tự nghĩ ra điều đó.
Không có gì hủy hoại những khả năng toán học bằng thói quen tiếp nhận những phương pháp giải có sẵn mà không hề tự hỏi vì sao cần giải đúng như thế và làm thế nào để có thể tự nghĩ ra điều đó.
W.W. Sawyer
------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Sự Vinh Hiển Của Loài Thọ Tạo
Trong những năm tuổi trẻ của mình George Washington Carver dường như được nhìn nhận là để dành cho sự thất bại trong tương lai. Sinh ra là một nô lệ da đen vào khoảng những năm 1864 tại một đồn điền ở Missori, cha ông bị chết trong một tai nạn ngay trước khi ông được sinh ra, mẹ ông bị bọn săn nô lệ bắt cóc và giết chết. Tuy lớn lên là một đứa bé mồ côi trong số “ những kẻ nghèo nhất của kẻ nghèo”, Carver đã trở thành một nhà giáo dục vĩ đại và là một trong những nhà nghiên cứu nông nghiệp lỗi lạc nhất trong lịch sử.
Ngay những năm còn nhỏ, Carver đã bị cây cỏ thu hút. Là một Cơ Đốc nhân sốt sắng, ông đã thuộc nằm lòng Sáng thế ký 1:29, “Này, ta sẽ ban cho các ngươi mọi thứ cỏ kết hột mọc khắp mặt đất; ấy sẽ là đồ ăn cho các ngươi…”. Ghi chú về câu Kinh thánh này ông viết “Này” có nghĩa là hãy nhìn kìa, hãy tìm kiếm, khám phá… Điều đó đối với tôi là điều tuyệt diệu nhất trên đời”. Đối với ông “những hình thức đa dạng của tự nhiên là một cánh cửa sổ nhỏ Đức Chúa Trời ban cho chúng ta mà chỉ đơn giản bằng cách nhấc màn lên và nhìn vào chúng ta có thể tương giao với Ngài và thấy được sự vinh hiển của công việc Ngài. Tôi yêu thích việc nghĩ rằng thiên nhiên là một trạm điện tín không dây mà Đức Chúa Trời dùng để nói chuyện với chúng ta mỗi ngày, mỗi giờ và mỗi giây phút của đời sống chúng ta”.
Carver đã tiến gần đến sự sáng tạo của Đức Chúa Trời với một tâm thần đặt gốc rễ trong chân lý Kinh thánh. Thiên nhiên là một quyển sách biểu lộ Đấng Tạo Hóa cũng như mục đích và trật tự sáng tạo của Ngài. Kết quả là bất cứ khi nào Carver khám phá ra mục đích của điều gì đó trong tự nhiên ông liền đem nó áp dụng vào trong thực tế.
Khi một phóng viên phụ trách mục nông nghiệp hỏi ông điều gì đã thúc đẩy ông nghiên cứu về hạt đậu, Carver đã trả lời rằng :
“Tại sao ư? Tôi bốc lấy một nắm đậu, quan sát nó và tôi đã thắc mắc, “Đấng Tạo Hóa vĩ đại, tại sao Ngài tạo nên hạt đậu. Tại sao vậy?” Với vốn kiến thức có được từ hóa học và vật lý tôi bắt đầu thử tách các thành phần của hạt đậu ra. Tôi tách nước riêng, chất béo riêng, chất bột riêng… các axit amin riêng. Kìa, tôi đã có những thành phần của hạt đậu hiện ra trước mắt tôi. Rồi tôi cố thử những cách khác nhau để kết hợp những thành phần đó dưới điều kiện nhiệt độ và áp suất khác nhau. Kết quả là… có 202 sản phẩm khác nhau được chế biến từ hạt đậu”.
Cuối cùng, nghiên cứu của Carver đã tạo ra 325 sản phẩm từ đậu, hơn 100 sản phẩm từ khoai lang và hàng trăm sản phẩm khác từ một tá cây trồng có mặt ở miền nam Hoa Kỳ. Đối với Carver những lẽ thật làm biến đổi của quan điểm Kinh thánh đã mở ra cánh cửa đến những khám phá diệu kỳ.
Thật không may, có những quan điểm nổi trội khác không tin vào một vũ trụ được tạo nên bởi một Đấng Tạo Hóa vĩ đại. Chủ nghĩa tự nhiên nhận định rằng vũ trụ vật chất này đã tự hình thành. Không hề có sự sắp xếp hay mục đích nào trong tự nhiên vì không hề có nhà thiết kế. Vẻ ngoài của sự sắp đặt chẳng qua chỉ là một ảo tưởng. Trái lại, thuyết duy linh lại xem thế giới vật chất là nơi cư ngụ của các thần linh. Muốn trồng trọt trên đất, trước tiên con người phải thỏa thuận và nhân nhượng thần linh. Thậm chí ở thời đại này, khi trong cơn hạn hán một nhà truyền giáo có thiện chí đào một cái giếng đã bị một số người ngăn cản vì nghĩ rằng điều đó sẽ “làm phiền các vị thần linh trong lòng đất”.
Bởi vì những hạt giống có quá nhiều, quá thông dụng nên chúng ta xem sự tái sản xuất này là điều đương nhiên. Nhưng hãy thử tưởng tượng ra rằng cây cỏ chỉ sản sinh ra một trái và bên trong chỉ có một hột giống. Một cơ cấu như vậy vẫn sẽ có sự tái sản sinh nhưng sẽ không có sự phong phú và sinh sôi. Thật may mắn rằng đây không phải là cơ cấu mà Đức Chúa Trời đã dựng nên. Trái lại, một hạt giống có thể sinh ra một cái cây đầy trái và trong mỗi trái cây đó lại chứa rất nhiều hạt giống. Có một câu ngạn ngữ Kenya minh họa cho quá trình hoạt động hết sức kỳ thú này : “Bạn có thể đếm được trong một quả xoài có bao nhiêu hạt, nhưng bạn không thể đếm được trong một hạt xoài có bao nhiêu quả xoài”.
Trong một hệ thống như vậy, Đức Chúa Trời đã ra lệnh cho Adam và Êva “hãy sanh sản thêm nhiều, làm cho đầy dẫy đất…” (Sáng thế ký 1:28). Đức Chúa Trời mong muốn có sự sinh sôi, phát triển trong loài thọ tạo của Ngài. Ý muốn của Ngài là “Sự nhận biết vinh quang Đức Giê-hô-va sẽ đầy dẫy khắp đất như nước đầy tràn biển” (Habacúc 2:14). Sự sáng tạo đáng kinh ngạc của Đức Chúa Trời rất năng động, với một khả năng đầy dẫy khắp đất.
Sáng thế ký 2:15 chép rằng: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem người ở vào cảnh vườn Êđen để trồng và giữ vườn”. Từ “trồng” ở đây chỉ sự tiến triển. Adam và Êva có nhiệm vụ làm cho vườn Êđen mở rộng chứ không chỉ là giữ cho khu vườn ở nguyên trạng. Họ được sử dụng nó để phục vụ cho lợi ích của mình (Thi thiên 104:10-15). Tuy nhiên họ cũng phải chăm sóc cho khu vườn nữa. Họ phải gìn giữ, bảo tồn và chăm sóc cho khu vườn để cho nó luôn xanh tốt, phát triển và nở rộ.
Là những công dân của mặt đất chúng ta đang sống trong khu vườn của Đức Chúa Trời. Ngài trao cho chúng ta nhiệm vụ của một người quản gia đối với ngôi nhà thiên nhiên; chúng ta phải nuôi dưỡng chăm sóc khoảng không, mặt nước, đất đai, cây trồng, động vật hay bất cứ loài nào khác.
Chúng ta hoàn toàn có thể tự do sử dụng những vật thọ tạo đó để phục vụ cho lợi ích của chúng ta nhưng khi chúng ta làm như vậy chúng ta phải nâng niu, chăm sóc chúng. Những quan điểm khác nhấn mạnh đến việc “trồng” nhưng không để tâm đến sự chăm sóc môi trường; điều đó dẫn đến sự lạm dụng và phá hủy thiên nhiên. Cũng có những quan điểm khác chú trọng đến sự chăm sóc môi trường nhưng không “trồng”, điều đó dẫn đến sự nghèo khó và kém phát triển. Quan điểm Kinh thánh đem đến sự cân bằng tuyệt vời giữa “trồng” và “chăm sóc”. Chúng ta là những người chăm sóc trong nhà Đức Chúa Trời, là những người quản gia đối với sự sáng tạo kỳ diệu của Ngài. Chúng ta có trách nhiệm phải chăm sóc thiên nhiên.
DARROW L. MILLER, ROBERT MOFFIT & SOTT ALLEN
(Theo Thế Giới Quan Về Nước Trời)
--------------------------------------------------------------------------------
Có Gì Trong Quả Trứng Của Em Jeremy? |
Em
Jeremy sinh ra đời với một thân thể khuyết tật. Tay chân em co quắp,
trí óc em không phát triển bình thường. Dù đã mười hai tuổi, em chỉ mới
học lớp hai, dù vậy em vẫn không theo kịp chúng bạn. Hầu như em không có
khả năng học hỏi gì cả. Cô giáo của em nhiều lúc rất là bực bội, có khi
giận dữ với em nữa, vì cô không đủ kiên nhẫn với một đứa học trò quá
chậm như thế. Trong giờ học, em Jeremy không ngồi yên nhưng cứ nằm ngả
nghiêng trên ghế. Miệng thì vừa dải nước bọt vừa phát ra những tiếng kêu
kỳ cục, khiến bạn cùng lớp bị chia trí, không chú tâm vào bài học được.
Thỉnh thoảng có những lúc em Jeremy nói năng rõ ràng và có vẻ hiểu biết
mọi việc chung quanh mình, làm như lúc đó có một tia sáng nào đó chiếu
rọi vào tâm trí đen tối của em. Nhưng hầu hết những lúc khác thì em
Jeremy chỉ là nỗi bực mình to lớn cho cô giáo.
Một
ngày kia, cô giáo gọi điện thoại mời cha mẹ em Jeremy đến trường gặp
cô, vì cô có điều muốn thưa với ông bà. Khi cha mẹ em đến, ngồi yên lặng
trong lớp học vắng tanh, nhìn dãy bàn ghế trống, ông bà chờ đợi không
biết cô giáo sắp nói gì về con của mình đây. Một lát sau cô giáo nói:
"Thưa ông bà, chúng tôi thấy em Jeremy phải được học ở một trường đặc
biệt. Nếu để em học ở đây thì thiệt thòi cho em, vì em phải học chung
với những đứa trẻ nhỏ hơn em quá nhiều, mà các em đó lại không nan đề gì
trong việc học hỏi. Ông bà cũng biết, con của ông bà lớn hơn các bạn
cùng lớp đến năm tuổi, khoảng cách đó quá lớn!" Nghe những điều cô giáo
nói, mẹ em Jeremy ngồi khóc thổn thức. Cha em bình tĩnh hơn, ông nói:
Thưa cô, trong vùng này không có trường đặc biệt dành cho những đứa bé
không bình thường như con của chúng tôi. Hơn nữa Jeremy rất thích ở đây,
nếu bây giờ đổi nó đi trường khác nó sẽ buồn lắm.
Cha
mẹ của Jeremy ra về đã lâu mà cô giáo vẫn còn ngồi yên trên ghế. Cô suy
nghĩ mãi không biết tính làm sao. Tuyết rơi ngoài trời nhưng cô cảm
thấy cái lạnh như từ trong lòng cô lan ra. Cô rất thông cảm với cha mẹ
của Jeremy. Ông bà chỉ có một đứa con duy nhất mà lại bị bệnh như thế,
một chứng bệnh không phương thuốc nào chữa được, thật là tội nghiệp ông
bà. Nhưng nếu giữ em Jeremy lại trong lớp này thì không công bằng cho
những em khác. Lớp này còn có mười tám em học trò khác, là những em cô
phải chăm sóc, dạy dỗ. Trong khi đó cô phải mất thì giờ với Jeremy quá
nhiều. Jeremy không những không học được mà còn quấy rầy các em khác
khiến các em đó bị chia trí, cũng không học được. Không những thế, mọi
người đều biết là dù cô giáo và cha mẹ cố gắng đến đâu, Jeremy sẽ không
bao giờ biết đọc biết viết. Như vậy tại sao phải phí thì giờ với em thêm
nữa?
Trong
khi suy nghĩ như thế, tự nhiên một cảm giác xấu hổ dâng lên trong lòng
cô. Cô bật khóc và thưa với Chúa: Chúa ơi xin tha thứ cho con, so với
nỗi khổ đau mà gia đình em Jeremy phải chịu thì nỗi khó khăn của con
không đáng gì cả. Xin giúp con biết kiên nhẫn và thương yêu Jeremy nhiều
hơn.
Từ
hôm đó trở đi, cô giáo cố gắng không để ý đến những hành động kỳ cục
của Jeremy, cô cũng cố làm ngơ trước những tiếng kêu kỳ cục phát ra từ
miệng của em. Thế rồi một ngày nọ, tự nhiên em Jeremy lết đến bàn cô
giáo, và em nói thật to cho cả lớp đều nghe. Em nói: "Cô ơi, em thương
cô lắm." Nghe vậy cả lớp cười rộ lên, cô giáo thì đỏ mặt vì xấu hổ. Cô
lúng túng nói: "Tại... tại sao vậy... Cảm ơn em, thôi em về chỗ ngồi
đi."
Thấm
thoát mà đã đến mùa xuân, học trò trong lớp đều nôn nao mong cho lễ
Phục Sinh mau đến. Cô giáo bắt đầu kể cho các em nghe về cuộc đời Chúa
Giê- xu. Cô nói cho các em biết rằng Chúa Giê-xu là Con của Đức Chúa
Trời, vì yêu thương loài người tội lỗi, Ngài đã xuống thế gian làm người
như chúng ta, để chịu chết thế cho chúng ta. Cô cũng nói, Chúa Giê-xu
bị đóng đinh trên cây thập tự. Người ta chôn Ngài trong một ngôi mộ
nhưng đến ngày thứ ba, Chúa đã sống lại. Ngôi mộ chôn Chúa trở thành
ngôi mộ trống. Đó là tại sao chúng ta có lễ Phục Sinh. Phục sinh là sống
lại từ trong kẻ chết. Để giúp các em học trò hiểu và nhớ rõ ý nghĩa của
lễ Phục Sinh, cô giáo nhấn mạnh rằng lễ Phục Sinh cũng như mùa xuân, là
biểu hiệu cho sự sống mới. Một hôm, cô phát cho mỗi học sinh một quả
trứng bằng nhựa, lớn gấp đôi quả trứng gà và cô bảo cả lớp: Các em đem
quả trứng bằng nhựa này về, cố gắng tìm một cái gì làm biểu hiệu cho sự
sống mới, bỏ vào trong quả trứng rồi ngày mai đem lại cho cả lớp xem.
Các em nhớ rõ chưa? Tất cả học trò trong lớp hăng hái trả lời: Thưa cô
nhớ rồi ạ. Riêng một mình em Jeremy yên lặng chú ý nghe cô giáo nói và
nhìn cô không chớp mắt, em cũng không làm tiếng kêu ồn ào như mọi ngày.
Cô giáo nhìn Jeremy thầm nghĩ: Không biết chú bé này có hiểu hết những
gì mình dạy về sự chết và sự sống lại của Chúa Giê-xu không? Có biết đem
cái trứng về để làm gì không đây? Có lẽ chiều về mình phải gọi bố mẹ
nó, dặn lại cho rõ ràng chứ có lẽ nó không hiểu gì đâu. Nhưng tối hôm
đó, ống nước nhà cô giáo bị bể, cô phải gọi người đến sửa. Sau đó cô
phải đi chợ rồi lại phải soạn bài dạy cho ngày mai nên cô quên, không
gọi bố mẹ Jeremy.
Sáng
hôm sau, mười chín đứa học trò hăng hái, vui vẻ đem mười chín quả trứng
bằng nhựa đến lớp, bỏ vào cái giỏ cô giáo đã để sẵn bên cạnh bàn giấy.
Sau giờ toán là giờ cho các học sinh chia xẻ với nhau. Cô giáo đến bên
cạnh cái giỏ đựng đầy những quả trứng, cô lần lượt cầm từng cái lên, mở
ra xem có gì trong đó và giải thích tại sao vật đó biểu hiệu cho sự sống
mới. Cô giáo mở cái trứng đầu tiên thấy trong đó có một cái hoa. Cô
nói: "Cái hoa đúng là biểu hiệu cho sự sống. Khi cái cây đâm chồi, nở
hoa, mình biết là mùa Xuân đã tới." Một em bé gái đưa tay lên nói: "Thưa
Cô, đó là cái trứng của em!" Cô giáo mở cái trứng thứ hai, thấy trong
có một con bướm bằng nhựa. Cô cầm con bướm lên và nói: "Chúng ta đều
biết là con sâu xấu xí sau một thời gian đổi thành con bướm xinh đẹp, đó
cũng là sự sống mới!" Sau đó, cô giáo mở cái trứng thứ ba, ở trong có
một cục đá dính rêu. Cô giải thích, cái rêu nầy cũng có sự sống. Một em
trai nói: "Ba em giúp em tìm đó!" Rồi cô giáo mở cái trứng thứ tư, cô
yên lặng, nín thở, cái trứng này trống không, bên trong chẳng có gì cả.
Các em học sinh trong lớp thấy vậy cười ồ lên. Cô giáo nghĩ chắc chắn
đây là cái trứng của Jeremy. Cậu bé nầy không bỏ gì vào đây vì đã không
hiểu lời dặn hôm qua. Phải mà hôm qua mình nhớ gọi cho bố mẹ nó. Rồi vì
không muốn Jeremy xấu hổ, cô để cái trứng đó qua một bên và cầm một cái
trứng khác lên. Bỗng Jeremy lên tiếng: "Thưa Cô, sao Cô không nói gì về
cái trứng của em?" Ngập ngừng, cô giáo trả lời: "Cái trứng của em trống
không, có gì mà nói?" Jeremy nhìn vào mắt cô giáo, giọng nhỏ nhẹ: "Nhưng
mộ của Chúa cũng trống không như vậy!"
Cô
giáo thấy như thời gian ngừng lại. Vài giây sau cô hỏi: "Em có biết tại
sao mộ Chúa trống không không?" Jeremy trả lời: "Dạ biết. Chúa bị người
ta giết, người ta bỏ Ngài vào mộ, rồi Đức Chúa Cha gọi Ngài sống lại."
Đúng lúc đó chuông reo báo giờ ra chơi. Trong khi đám học trò hăng hái
chạy ra sân chơi, cô giáo ngồi khóc. Nỗi lạnh lẽo trong lòng cô tan chảy
hết.
Ba
tháng sau, em Jeremy chết. Những người đến dự đám tang ngạc nhiên không
hiểu vì sao trên quan tài của em có 19 quả trứng bằng nhựa, tất cả đều
trống không.
Kính
thưa quý thính giả, chúng tôi vừa chia xẻ với quý vị một câu chuyện
thật, đã xảy ra nhiều năm trước đây. Em Jeremy tuy bị khuyết tật nhưng
em biết Chúa Cứu Thế là ai và đã đặt trọn vẹn lòng tin nơi Ngài. Đức tin
của em Jeremy đơn sơ nhưng chân thành và mạnh mẽ. Đức tin đó đã đem đến
cho em sự cứu rỗi và sự sống đời đời. Nhiều khi chúng ta dùng sự hiểu
biết và khôn ngoan của mình để giải thích, phân tích Tin Mừng Cứu Rỗi mà
Chúa Cứu Thế đã dành sẵn cho chúng ta, thay vì lấy đức tin chân thành
tiếp nhận. Chúa Giê-xu từng dạy rằng, người nào đến với Ngài phải đến
với đức tin đơn sơ như đức tin của trẻ con thì mới có thể nhận được Nước
của Đức Chúa Trời. Phúc Âm Mác chương 10 ghi như sau: "Người ta đem
những con trẻ đến cùng Chúa Giê-xu đặng Ngài đụng đến chúng, nhưng môn
đồ trách những kẻ đem đến. Đức Chúa Giê-xu thấy vậy, bèn giận mà phán
cùng môn đồ rằng: Hãy để con trẻ đến cùng ta, đừng cấm chúng nó, vì Nước
Đức Chúa Trời thuộc về những kẻ giống như con trẻ ấy. Quả thật, ta nói
cùng các ngươi, ai chẳng nhận lấy Nước Đức Chúa Trời như một đứa trẻ thì
chẳng được vào đó bao giờ." Cầu xin Chúa giúp chúng ta đến với Chúa và
tiếp nhận sự cứu rỗi của Ngài với đức tin chân thành, đơn sơ như đức tin
của em Jeremy trong câu chuyện hôm nay.
Minh Nguyên
Chương Trình Phát Thanh Tin Lành
-----------------------------------------------------------------------------------
Đức Chúa Trời không những muốn trồng Lời Ngài vào trong lòng bạn. Ngài còn muốn trồng bạn vào trong thế gian này. Trong thế gian này, Đức Chúa Trời chỉ nhìn thấy 2 loại người : Những người sống trong sự sáng và những người sống trong sự tối tăm. Đức Chúa Trời không nhìn màu da của bạn, Ngài nhìn vào lòng bạn và ân tứ của Ngài trong bạn.
Khi Đức Chúa Trời bảo tôi đến Philippine, Ngài đã không đem một người Mỹ trồng ở Philippine. Đức Chúa Trời chi đem một hạt giống trồng vào xứ này.
Khi chúng ta xét đoán một người theo màu da và hình dáng bên ngoài thì chúng ta đã không làm đúng mục đích của Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng đã ngăn trở những gì mà Đức Chúa Trời muốn dùng người khác truyền đạt vào chúng ta. Đừng nên phân biệt con người do sự khác nhau về màu da hay chủng tộc. Đức Chúa Trời không xét đoán như loài người xét đoán, vì Con Người nhìn thấy trong lòng (I Sam 16:7). Đức Chúa Trời không thấy tôi là người Mỹ, Ngài thấy tôi là con cái của Ngài. Tôi là đứa con trong nước của Ngài. Tôi là hạt giống được Ngài trồng ở Philippine, và tôi phải kết quả ở đó. Hễ khi nào bạn trồng một hạt giống, hạt giống đó phải sinh ra một cây mới. Khi bạn được trồng, bạn phải lớn lên và kết quả. Trong quả của bạn là hạt giống để kết quả nhiều hơn. Nhưng trước hết bạn phải được trồng.
Chúa Jesus phán rằng BẠN là hạt giống tốt (Mat 13:7). Nếu bạn được Thánh Linh của Đức Chúa Trời sanh lại, bạn là con trong nước Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời muốn trồng bạn. Đức Chúa Trời muốn trồng bạn ở đâu ? Ở thế gian này.
Nơi đầu tiên mà Đức Chúa Trời muốn trồng bạn là một Hội thánh tốt. Thi thiên 92:13 chép “Những kẻ được trồng trong nhà Đức Giêhôva, sẽ trổ bông trong hành lang của Đức Chúa Trời chúng ta”. Sau đó Đức Chúa Trời muốn trồng bạn vào trong một nghề nghiệp hay chức vụ nào đó. Mục đích trồng của Ngài là để bạn đi đến với thế giới của bạn.
Để hoàn thành mục đích Đức Chúa Trời cho đời sống bạn, thì bạn phải được trồng đúng chỗ - trong đất tốt. Đức Chúa Trời muốn trồng bạn vào trong đất đã chuẩn bị cho bạn. Nhưng mặc dù mảnh đất đó đã được chuẩn bị nhưng không có nghĩa là sẽ có kết quả dễ dàng. Không thể bởi hoàn cảnh của bạn mà bạn phán quyết được mình có ở trong ý chỉ của Đức Chúa Trời hay không ở trong ý chỉ của Ngài. Không phải khi mọi sự tốt đẹp là bạn đang ở trong ý chỉ của Đức Chúa Trời đâu. Và dù mọi sự có vẻ tồi tệ cũng không có nghĩa là bạn đã ở ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời. Nếu trường hợp này là đúng thì Sứ đồ Phao Lô luôn ở ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời.
Hầu như đối với Phao Lô, mọi sự đều không trôi chảy. Ông bị chìm tàu, bị tống giam, bị ném đá gần chết, nhưng vẫn không ở ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời. Phao Lô vẫn ở trong ý chỉ của Đức Chúa Trời. Phao Lô vẫn ở trong cuộc đua. Ông không bị lệch đường. Đức Chúa Trời đã sửa soạn nơi chỗ và tình trạng để trồng Phao Lô xuống. Cũng vậy, Đức Chúa Trời đã chuẩn bị nơi chỗ và hoàn cảnh để trồng bạn xuống. Những nơi này là chặng đua của bạn. Không thể căn cứ vào những điều xung quanh mà bạn có thể đánh giá được những gì Đức Chúa Trời đang làm trong đời sống bạn hay qua đời sống bạn. Bạn phải xét thử xem bạn đang ở đâu trong cuộc đua và tình trạng thật của bạn theo như Thánh Linh đang phán bên trong bạn là gì. Bạn có được trồng trong một hoàn cảnh nào đó không ? Cần có bao nhiêu thời gian để cây lớn lên ? Bạn hãy nhớ rằng 14 năm sau khi được cứu, Phao Lô mới lên Jêrusalem để thông công với các anh em. Chúng ta rất thường quan tâm đến việc tôi làm gì và tôi muốn hoàn thành điều gì mà quên mất một điều là chúng ta cần phải trở thành cái gì. Chúa Jesus phán với các môn đồ “Hãy theo ta, ta sẽ KHIẾN CÁC NGƯƠI trở nên tay đánh lưới người” (Mat 4:19). Điều mà Chúa Jesus muốn nói là “Ta sẽ khiến các ngươi trở thành một người nào đó trong ta để các ngươi có thể làm một điều gì đó cho ta”. Chúng ta đã gây nhiều nan đề trong chức vụ khi sự quan tâm hàng đầu của chúng ta là làm một điều gì đó, thay vì phải trở nên một người nào đó trong Christ để Đức Chúa Trời được vinh hiển.
Đối với người khác, điều bạn đang làm, có thể là tốt, hoặc có vẻ tốt, dường như tốt. Tuyệt lắm ! Nhưng Đức Chúa Trời sẽ không được vinh hiển với những gì bạn đang làm nếu điều đó không phải là điều Đức Chúa Trời bảo bạn làm.
Cho nên, khi bạn thực hiện một kế hoạch nào đó mà không có sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời thì sẽ có sự thất bại, bạn bắt đầu kêu la và phàn nàn vì bạn không thể tiến hành được những gì do bạn xếp đặt. Đức Chúa Trời không có trách nhiệm ủng hộ những gì mà Ngài không bảo hoặc không muốn bạn làm. Quan tâm hàng đầu và trách nhiệm trước nhất của bạn là bạn sẽ trở thành con người như thế nào, chứ không phải bạn đang làm gì. Bạn là hạt giống trong tay Đức Chúa Trời. Bạn đang để Ngài trồng bạn hay bạn đang tự trồng mình ? Chức vụ của bạn không thể đặt trên cơ hội. Chức vụ của bạn phải được đặt trên sự vâng lời. Bạn sẽ gặp những cơ hội nhưng không phải tất cả những cơ hội đều đến từ Chúa. Sẽ không có đủ thời gian để bạn đi khắp nơi mà bạn có cơ hội đi, hoặc làm mọi điều mà bạn có cơ hội để làm. Bạn không phải có trách nhiệm cho toàn thế giới được !
Nhưng bạn có trách nhiệm lắng nghe Đức Chúa Trời. Nếu bạn đặt phương hướng đời sống của bạn hoặc chức vụ của bạn trên việc làm theo cơ hội, thì bạn sẽ không biết phải đi đâu vì thế gian này đầy những nhu cầu. Và bạn không thê bị dẫn dắt bởi nhu cầu. Bạn phải được Thánh Linh dẫn dắt. Trong Esai 1:19 chép, nếu bạn sẵn lòng và vâng lời, bạn sẽ ăn được sản vật tốt nhất của đất. Chúa Jesus phán rằng Cha được sáng danh khi bạn kết quả nhiều (Giăng 15:8). Nhưng nếu bạn không được trồng đúng chỗ, bạn sẽ chẳng kết được nhiều quả đâu.
Hãy để Đức Chúa Trời trồng bạn. Đừng để bạn bè trồng bạn. Đừng để áp lực của những người thân trồng bạn. Hãy để Thánh Linh của Đức Chúa Trời trồng bạn. Điều đó không có nghĩa là chỉ có bạn mới nghe được Thánh Linh của Đức Chúa Trời phán thôi đâu. Bạn cũng cần sự góp ý của những anh, chị trong Christ, những người có sự nhạy bén và sự vâng lời Thánh Linh.
Khi bạn đã lắng nghe Chúa một cách chính xác rồi, thì một ai đó sẽ làm chứng và đồng ý với bạn. Một người khác cũng nhận được một sự xác quyết trong sự cầu nguyện. Tuy nhiên bạn phải có trách nhiệm vâng theo điều Đức Chúa Trời đã phán với lòng bạn chứ không vâng theo những gì mà con người đã tưởng tượng ra trong tâm trí họ.
PAUL CHASE
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Facebook giai thoại và những con số thống kê
Đồng sáng lập viên Facebook và trước đây là bạn cùng phòng ở đại học Harvard của Mark Zuckerberg, ông Dustin Moskovitz, 27 tuổi , được coi như nhà tỉ phú thân lập thân trẻ nhất thế giới. Nhưng ông không tự mãn an hưởng xa hoa, nhung lụa.
Ông vẫn lao vào công việc, thành lập một công ty trong vùng San Francisco, mặc dù một khi Facebook niêm yết trên thị trường chứng khoán, tài sản của ông có thể sẽ còn gia tăng vượt mức. Năm 2008, ông cùng với một người bạn, cũng từng làm việc cho Facebook, ông Justin Rosenstein năm nay mới 28 tuổi, có tài sản cỡ 150 triệu đô la, thành lập công ty Asana trong vùng San Francisco. Những người trẻ này không làm vì cần tiền. Với tài sản đó, họ thừa điều kiện ăn tiêu thoải mái cả đời không hết.
Trong một cuộc phỏng vấn tại San Francisco được hãng AP thuật lại, hai người trẻ này nói họ đến sở làm mỗi ngày vì họ thấy cần phải làm một chuyện gì đó cho cuộc đời trước mặt.
Triệu phú Rosenstein nói: ”Khi chúng tôi nghĩ đến công việc, chúng tôi coi đó như đó một hành động phục vụ, một hành động do tình yêu nhân loại.” Và ông Moskovitz cho rằng nếu giải nghệ, nghỉ hưu thì họ chẳng phục vụ cho ai cả. Hai ông thành lập công ty Asana, mới đây vừa tung ra thị trường nhu liệu dùng phải trả tiền, cho dịch vụ online để quản lý các dự án.
Không những chỉ làm việc, mà họ làm việc siêng năng cần mẫn do ý thích thúc đẩy.
Đã vậy, họ không màng đến những hào nhoáng, xa hoa mà cũng không cần phải xác định rõ địa vị chỉ huy công ty của họ bằng hình thức bề ngoài . Công ty có tất cả 24 người. Hai ông chủ không lập văn phòng riêng. Họ ngồi chung với những nhân viên khác, và ăn vận xuyềnh xoàng, không cổ cồn, cà vạt, người thì áo sơ mi bỏ ngoài quần, người thì mặc áo len và đi giày thể thao. Trong khu xóm họ ở, họ có thể hòa đồng ngay vào với rất nhiều người trẻ hơi có tí lập dị.
Không hộ tống, không ồn ào, ông Rosenstein thích đi lại bằng xe đạp và mới đây còn bị đạo chích thuổng mất chiếc xe!
Thế nhưng nhân viên làm việc cho Asana được tham gia những lớp yoga miễn phí, có đầu bếp đến nấu ăn cho cả sở, và mỗi nhân viên mới được dành cho 10 ngàn đô la để mua những máy điện toán, nhu liệu và những dụng cụ cần thiết cho công việc của họ.
Chỉ có một điều khiến họ khác nhau, đó là mỗi người có hoàn toàn tự do theo đuổi viễn kiến riêng để làm sao thay đổi thế giới. Và họ tin chắc những sản phẩm của họ sẽ có hiệu quả đúng theo ý họ. Nói cho cùng, trong tư thế của những kỹ sư đầu tiên thành lập Facebook, họ đã chứng kiến sáng tạo cuả họ giúp thay đổi được thế giới một lần rồi. Theo ông Rosenstein, công ty Asana sẽ tìm cách đưa ra những nhu liệu để tiến hành công việc thường nhật dễ dàng hầu giúp người ta rảnh tay theo đuổi những mục tiêu quan trọng hơn, như nghiên cứu chữa trị ung thư, chế tạo phi thuyền không gian, hay sáng tác nghệ thuật v..v..
Asana cho biết nhiều công ty công nghệ lớn đã đón nhận Asana, như Twitter, LinkedIn và Foursquare. Ngoài ra nhiều nhà đầu tư nổi tiếng cũng ủng hộ Asana.
Hiện ông Moskowitz nắm giữ 7,6% cổ phần của Facebook, tính ra trị giá đến hơn 4 tỉ đô la trước khi công ty niêm yết trên thị trường.
Cũng giống như nhiều người giàu nhất nước Mỹ, tỉ phú Moskovitz đã đua ra lời cam kết cho đi gần hết tiền bạc mà ông có, theo như đề xướng của ông bà Bill và Melinda Gates và ông Warren Buffett. Cô Cari Tuna, bạn gái, hôn thê sống chung của ông, cựu ký giả tờ báo Wall Street Journal chuyên về thị trường chứng khoán, hiện đang giúp ông điều hành một quĩ từ thiện đang bắt đầu hoạt động.
Tờ tạp chí Forbes số ra ngày 30 tháng tư mới đây, có liệt kê tên của những tỉ phú độc thân trên thế giới, từ trẻ đến già, để giúp ai mang mộng sánh duyên với tỉ phú có tí chút hy vọng!
Một số những phụ nữ đã kết hôn với các tỉ phú, như bà Melinda Gates hay Susan Buffett, vợ đầu đã qua đời hoặc Astrid Menks, người vợ hiện nay của tỉ phú Buffett, đều là những phụ nữ không thuộc loại nhan sắc như siêu mẫu hay minh tinh màn bạc nhưng họ đều là những người chừng mực, nghiêm túc đáng kính trọng.
Một trong những nhà tỉ phú Mỹ hiện độc thân nhưng đã ly dị một đời vợ và vừa ly thân với người vợ thứ nhì, ông Elon Musk, khi được hỏi là còn tin vào tình yêu hay không, ông trả lời:” vẫn hoàn toàn tin tưởng.” Mới đây ông phác họa với ký giả Hannah Elliott của tờ Forbes về mẫu người mà ông có thể kết hôn, đó là một người phải vị tha, làm việc siêng năng và thực tế. Khi được nữ ký giả này gặng hỏi là ông cảm thấy như thế nào nếu ông không tìm ra người đúng ý, ông trả lời “thật là buồn vì tôi sẽ không có ai cả.”
*****************************************************
Facebook nói nhiệm vụ của trang web này là “làm cho thế giới cởi mở hơn và liên kết với nhau.”
Facebook là một trang mạng xã hội giúp cho mọi người tiếp xúc với gia đình và bạn bè và kết nối những người có những lợi ích giống nhau trên toàn thế giới, tất cả đều qua máy vi tính.
Trang mạng xã hội này rất thông dụng, với hơn 900 triệu người sử dụng. Nếu là một quốc gia, Facebook có số dân gấp 3 lần dân số Hoa Kỳ.Các tài liệu đệ trình lên các kiểm soát viên tài chánh Hoa Kỳ cho biết Facebook có hàng trăm triệu người tích cực sử dụng, họ gởi hàng tỉ tin nhắn mỗi ngày và đưa lên mạng 250 triệu hình ảnh trên những trang mạng cá nhân của họ. Những người sử dụng Facebook đã ghi tên 100 triệu “người bạn”
Trên Facebook, “làm bạn” với ai có nghĩa là thêm tên người đó vào danh sách những người bạn có thể trao đổi thông tin một cách trực tiếp, và thường cho phép người đó thấy nhiều tin tức về bạn hơn là bạn chia sẻ tin tức này với công chúng.
Facebook do ông Mark Zuckerberg và những sinh viên khác tại trường đại học Harvard khởi xướng vào năm 2004 và đã tăng trưởng một cách vô cùng nhanh chóng.
Facebook làm ra tiền khi những người quảng cáo trả tiền để có thể tiếp cận với hàng trăm triệu người sử dụng Facebook.
Các nhà quảng cáo thường đưa trực tiếp thông tin đến những người quan tâm đến những sản phẩm của họ vì Facebook lưu giữ những thông tin người sử dụng đưa lên trang của họ. Chẳng hạn như một người quan tâm đến môn thể thao lặn dưới nước, lập kế hoạch tổ chức một đám cưới, tìm việc làm, hay bị bệnh tiểu đường có thể xem những quảng cáo liên hệ đến những đề tài này.
Facebook đã trở thành một phần của văn hóa Hoa Kỳ cùng những nước khác và đã trở thành đề tài của một bộ phim Hollywood, một dụng cụ tiếp thị quan trọng cho nhiều doanh nghiệp, và nội dung của một số trang Facebook đã được sử dụng làm bằng chứng trong một số vụ ly dị và tội phạm.
*****************************************************
Facebook, mạng xã hội có hơn 900 triệu người sử dụng trên khắp thế giới, sắp phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Hôm qua, Facebook loan báo họ sẽ chào bán cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng với giá bán khoảng 28 đôla đến 35 đôla một cổ phiếu. Với giá này, Facebook sẽ có giá trị lên tới 96 tỷ đôla.
Các giám đốc điều hành của Facebook sẽ tổ chức một sự kiện mà họ gọi là “một cuộc trình diễn lưu động” ở một số thành phố lớn của Mỹ để thu hút các nhà đầu tư. Họ hy vọng cổ phiếu sẽ sẵn sàng và được chào bán trên sàn NASDAQ vào giữa tháng Năm.
Tổng Giám đốc điều hành Facebook, ông Mark Zuckerberg thành lập Facebook ngay tại phòng ký túc xá của ông ở trường đại học Harvard cách đây mới 8 năm. Kể từ đó, mạng xã hội này đã phát triển mạnh mẽ và hiện thu hút hơn 900 triệu người sử dụng. Họ dùng Facebook để đăng tải hình ảnh và thông tin về cuộc sống của mình và thường kết nối lại với những bạn bè hay thành viên gia đình mà họ đã mất liên lạc lâu nay.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phép Màu Hết Bao Nhiêu
Khi nghe cha mẹ bàn về bệnh tình của cậu em trai Andrew, những gì cô bé Tess thông minh lên 8 tuổi biết được là em mình mắc bênh rất nặng và gia đình đã cạn kiệt tiền. Gia đình họ sắp chuyển đến một khu chung cư vào tháng tới vì cha không có đủ để trả tiền nhà và tiền thuốc của bác sĩ. Cần có một ca phẫu thuật với chi phí rất cao mới có thể cứu được em trai nhưng ngặt nổi không có ai cho gia đình em vay mượn. Em nghe cha tuyệt vọng nói nhỏ với mẹ đang đầm đìa nước mắt: “Chỉ có phép nhiệm mầu mới có thể cứu được thằng bé thôi!”.
Tess về phòng mình và lôi ra từ chỗ giấu một hủ đựng kẹo bằng thủy tinh với số tiền em đã dành dụm bấy lâu nay. Cô bé đổ hết số tiền lẻ ra sàn đếm kỹ lưỡng, đến những 3 lần. Phải thật chinh xác về tổng số tiền. Không thể nhầm lẫn. Rồi cẩn thận bỏ số tiền xu vào hủ đậy nắp lại, em vội lẻn ra cửa sau và chạy thẳng đến một tiệm thuốc tây tên Rexall cách 6 khu nhà.
Em đứng trước cửa hiệu một cách kiên nhẫn để gợi sự chú ý của người dược sĩ, nhưng ông ta mãi chuyện với một người khác không buồn để ý đến một con bé 8 tuổi. Đoạn em dùng chân gõ lên sàn nhà. Không tác dụng. Em hắng giọng để tạo ra tiếng động khó chịu nhất nhưng vô ích. Cuối cùng em lấy một đồng 25 xu gõ mạnh lên tủ kính và người dược sĩ cất giọng một cách khó chịu: “Cháu muốn gì hả cháu bé? Ông ta nói ngay không đợi Tess trả lời. “Cháu không thấy ta đang nói chuyện với người anh từ Chicago xa cách bao nhiêu năm trời hay sao?”. Tess cũng trả lời với vẻ bực bội:
“Cháu cũng muốn nói chuyện với chú về em trai của cháu đây. Em ấy đang ốm, ốm nặng lắm, và cháu đến đây để mua … phép mầu nhiệm”.
“Cháu muốn mua gì?”. Người dược sĩ tròn mắt với vẻ không hiểu.
Em cháu tên là Andrew và em ấy chịu đựng cái gì đó đau lắm ở trong đầu. Cha cháu nói rằng chỉ có phép nhiệm mầu mới cứu được em. Vậy phép nhiệm mầu bán với giá bao nhiêu hả bác?”.
“Ở đây không bán thứ đó cháu bé ạ. Chú rất tiếc không giúp cháu được.” – giọng người dược sĩ dịu lại.
“Nhưng thưa chú, cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ cháu sẽ đi mượn thêm. Xin cho cháu biết giá bao nhiêu ạ.” – giọng Tess van nài.
Người anh của ông dược sĩ ăn mặc rất đẹp. Ông nghiêng người xuống hỏi Tess: “Thế em cháu cần phép nhiệm mầu gì?” Tess trả lời như muốn khóc. ”Cháu không biết ạ,” Cháu chỉ biết em ốm nặng. Mẹ nói em cần được mổ. Nhưng bố không đủ tiền trả, vì vậy cháu muốn dùng tiền của cháu.”
Ông ta hỏi, “Thế cháu có bao nhiêu?”
” 1 đô và 11 xu. Đó là những gì cháu có, nhưng cháu có thể mượn thêm được mà.” Tess nói to.
“Ồ, thật trùng hợp”, người đàn ông mỉm cười “1 đô và 11 xu – một số tiền chính xác để mua phép màu nhiệm cho em cháu”. Sau đó, ông cầm số tiền và nắm chặt bàn tay cô bé nói: “Cháu hãy dẫn ta dến nhà cháu. Ta muốn gặp em cháu và cha mẹ cháu. Để xem ta có phép màu mà cháu cần không nhé!”.
Người đàn ông ấy chính là Carlton Armstrong, một bác sĩ chuyên về giải phẫu thần kinh. Cuộc phẫu thuật đã rất thành công mà không hề tốn kém bất cứ chi phí nào. Em trai Andrew hồi phục nhanh và sống khoẻ mạnh. Cha mẹ Tess vui hơn lúc nào hết về chuỗi sự việc đưa đẩy đến. Mẹ em thì thầm: ” Bác sĩ giải phẫu ấy, thật sự là một phép màu. Mẹ không biết mình phải trả bao nhiêu tiền? “.
Tess mỉm cười. Cô bé biết chính xác số tiền đó…1 đô và 11 xu… cộng thêm niềm tin chân thành của một đứa trẻ.
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
Chương Trình Phát Thanh Tin Lành
-----------------------------------------------------------------------------------
Bạn Là Hạt Giống Của Đức Chúa Trời
Đức Chúa Trời không những muốn trồng Lời Ngài vào trong lòng bạn. Ngài còn muốn trồng bạn vào trong thế gian này. Trong thế gian này, Đức Chúa Trời chỉ nhìn thấy 2 loại người : Những người sống trong sự sáng và những người sống trong sự tối tăm. Đức Chúa Trời không nhìn màu da của bạn, Ngài nhìn vào lòng bạn và ân tứ của Ngài trong bạn.
Khi Đức Chúa Trời bảo tôi đến Philippine, Ngài đã không đem một người Mỹ trồng ở Philippine. Đức Chúa Trời chi đem một hạt giống trồng vào xứ này.
Khi chúng ta xét đoán một người theo màu da và hình dáng bên ngoài thì chúng ta đã không làm đúng mục đích của Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng đã ngăn trở những gì mà Đức Chúa Trời muốn dùng người khác truyền đạt vào chúng ta. Đừng nên phân biệt con người do sự khác nhau về màu da hay chủng tộc. Đức Chúa Trời không xét đoán như loài người xét đoán, vì Con Người nhìn thấy trong lòng (I Sam 16:7). Đức Chúa Trời không thấy tôi là người Mỹ, Ngài thấy tôi là con cái của Ngài. Tôi là đứa con trong nước của Ngài. Tôi là hạt giống được Ngài trồng ở Philippine, và tôi phải kết quả ở đó. Hễ khi nào bạn trồng một hạt giống, hạt giống đó phải sinh ra một cây mới. Khi bạn được trồng, bạn phải lớn lên và kết quả. Trong quả của bạn là hạt giống để kết quả nhiều hơn. Nhưng trước hết bạn phải được trồng.
Chúa Jesus phán rằng BẠN là hạt giống tốt (Mat 13:7). Nếu bạn được Thánh Linh của Đức Chúa Trời sanh lại, bạn là con trong nước Đức Chúa Trời và Đức Chúa Trời muốn trồng bạn. Đức Chúa Trời muốn trồng bạn ở đâu ? Ở thế gian này.
Nơi đầu tiên mà Đức Chúa Trời muốn trồng bạn là một Hội thánh tốt. Thi thiên 92:13 chép “Những kẻ được trồng trong nhà Đức Giêhôva, sẽ trổ bông trong hành lang của Đức Chúa Trời chúng ta”. Sau đó Đức Chúa Trời muốn trồng bạn vào trong một nghề nghiệp hay chức vụ nào đó. Mục đích trồng của Ngài là để bạn đi đến với thế giới của bạn.
Để hoàn thành mục đích Đức Chúa Trời cho đời sống bạn, thì bạn phải được trồng đúng chỗ - trong đất tốt. Đức Chúa Trời muốn trồng bạn vào trong đất đã chuẩn bị cho bạn. Nhưng mặc dù mảnh đất đó đã được chuẩn bị nhưng không có nghĩa là sẽ có kết quả dễ dàng. Không thể bởi hoàn cảnh của bạn mà bạn phán quyết được mình có ở trong ý chỉ của Đức Chúa Trời hay không ở trong ý chỉ của Ngài. Không phải khi mọi sự tốt đẹp là bạn đang ở trong ý chỉ của Đức Chúa Trời đâu. Và dù mọi sự có vẻ tồi tệ cũng không có nghĩa là bạn đã ở ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời. Nếu trường hợp này là đúng thì Sứ đồ Phao Lô luôn ở ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời.
Hầu như đối với Phao Lô, mọi sự đều không trôi chảy. Ông bị chìm tàu, bị tống giam, bị ném đá gần chết, nhưng vẫn không ở ngoài ý chỉ của Đức Chúa Trời. Phao Lô vẫn ở trong ý chỉ của Đức Chúa Trời. Phao Lô vẫn ở trong cuộc đua. Ông không bị lệch đường. Đức Chúa Trời đã sửa soạn nơi chỗ và tình trạng để trồng Phao Lô xuống. Cũng vậy, Đức Chúa Trời đã chuẩn bị nơi chỗ và hoàn cảnh để trồng bạn xuống. Những nơi này là chặng đua của bạn. Không thể căn cứ vào những điều xung quanh mà bạn có thể đánh giá được những gì Đức Chúa Trời đang làm trong đời sống bạn hay qua đời sống bạn. Bạn phải xét thử xem bạn đang ở đâu trong cuộc đua và tình trạng thật của bạn theo như Thánh Linh đang phán bên trong bạn là gì. Bạn có được trồng trong một hoàn cảnh nào đó không ? Cần có bao nhiêu thời gian để cây lớn lên ? Bạn hãy nhớ rằng 14 năm sau khi được cứu, Phao Lô mới lên Jêrusalem để thông công với các anh em. Chúng ta rất thường quan tâm đến việc tôi làm gì và tôi muốn hoàn thành điều gì mà quên mất một điều là chúng ta cần phải trở thành cái gì. Chúa Jesus phán với các môn đồ “Hãy theo ta, ta sẽ KHIẾN CÁC NGƯƠI trở nên tay đánh lưới người” (Mat 4:19). Điều mà Chúa Jesus muốn nói là “Ta sẽ khiến các ngươi trở thành một người nào đó trong ta để các ngươi có thể làm một điều gì đó cho ta”. Chúng ta đã gây nhiều nan đề trong chức vụ khi sự quan tâm hàng đầu của chúng ta là làm một điều gì đó, thay vì phải trở nên một người nào đó trong Christ để Đức Chúa Trời được vinh hiển.
Đối với người khác, điều bạn đang làm, có thể là tốt, hoặc có vẻ tốt, dường như tốt. Tuyệt lắm ! Nhưng Đức Chúa Trời sẽ không được vinh hiển với những gì bạn đang làm nếu điều đó không phải là điều Đức Chúa Trời bảo bạn làm.
Cho nên, khi bạn thực hiện một kế hoạch nào đó mà không có sự dẫn dắt của Đức Chúa Trời thì sẽ có sự thất bại, bạn bắt đầu kêu la và phàn nàn vì bạn không thể tiến hành được những gì do bạn xếp đặt. Đức Chúa Trời không có trách nhiệm ủng hộ những gì mà Ngài không bảo hoặc không muốn bạn làm. Quan tâm hàng đầu và trách nhiệm trước nhất của bạn là bạn sẽ trở thành con người như thế nào, chứ không phải bạn đang làm gì. Bạn là hạt giống trong tay Đức Chúa Trời. Bạn đang để Ngài trồng bạn hay bạn đang tự trồng mình ? Chức vụ của bạn không thể đặt trên cơ hội. Chức vụ của bạn phải được đặt trên sự vâng lời. Bạn sẽ gặp những cơ hội nhưng không phải tất cả những cơ hội đều đến từ Chúa. Sẽ không có đủ thời gian để bạn đi khắp nơi mà bạn có cơ hội đi, hoặc làm mọi điều mà bạn có cơ hội để làm. Bạn không phải có trách nhiệm cho toàn thế giới được !
Nhưng bạn có trách nhiệm lắng nghe Đức Chúa Trời. Nếu bạn đặt phương hướng đời sống của bạn hoặc chức vụ của bạn trên việc làm theo cơ hội, thì bạn sẽ không biết phải đi đâu vì thế gian này đầy những nhu cầu. Và bạn không thê bị dẫn dắt bởi nhu cầu. Bạn phải được Thánh Linh dẫn dắt. Trong Esai 1:19 chép, nếu bạn sẵn lòng và vâng lời, bạn sẽ ăn được sản vật tốt nhất của đất. Chúa Jesus phán rằng Cha được sáng danh khi bạn kết quả nhiều (Giăng 15:8). Nhưng nếu bạn không được trồng đúng chỗ, bạn sẽ chẳng kết được nhiều quả đâu.
Hãy để Đức Chúa Trời trồng bạn. Đừng để bạn bè trồng bạn. Đừng để áp lực của những người thân trồng bạn. Hãy để Thánh Linh của Đức Chúa Trời trồng bạn. Điều đó không có nghĩa là chỉ có bạn mới nghe được Thánh Linh của Đức Chúa Trời phán thôi đâu. Bạn cũng cần sự góp ý của những anh, chị trong Christ, những người có sự nhạy bén và sự vâng lời Thánh Linh.
Khi bạn đã lắng nghe Chúa một cách chính xác rồi, thì một ai đó sẽ làm chứng và đồng ý với bạn. Một người khác cũng nhận được một sự xác quyết trong sự cầu nguyện. Tuy nhiên bạn phải có trách nhiệm vâng theo điều Đức Chúa Trời đã phán với lòng bạn chứ không vâng theo những gì mà con người đã tưởng tượng ra trong tâm trí họ.
PAUL CHASE
-----------------------------------------------------------------------------------
Talk&Think: GS. Trịnh Xuân Thuận nói về Con người - Vũ trụ
=================================================================
Nhà nước, nhân dân, trí thức
N. MOISEEV
Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga
|
Hiện
nay không phải chính phủ và nhà nước mà chính là giới trí thức chịu
trách nhiệm chính trong nhận thức về tình thế hiện nay, trong việc so
sánh đối chiếu những lựa chọn cho sự phát triển. Chính giới trí thức có
nhiệm vụ tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra và tại sao lại xảy ra, xem
cái gì của quá khứ nên gìn giữ bởi lẽ chủ nghĩa hư vô tổng thể rất nguy
hiểm, nó làm cho tầm hồn nhân dân khô héo, khiến cho mọi người trở nên
hung bạo, nó tước đoạt mất của họ một trong những đặc tính tuyệt vời
nhất của con người là khả năng biết tha thứ. Và trong bối cảnh như vậy
chúng ta cần phải xem xét lại một cách có phê phán nhiều luận điểm về
đạo đức mà trong suốt ba phần tư thế kỷ đã trở thành những chuẩn mực.
Cũng
như nhiều người, tôi cho rằng sự tồn tại vật chất là có trước. Nhưng
đó chỉ là luận điểm triết học chung chung. Trong thực tế, yếu tố vật
chất và yếu tố tinh thần gắn liền khăng khít với nhau bằng nhiều mối
liên hệ gián tiếp. Và chúng mang tính chất không đơn nghĩa và đôi khi
còn mang tính chất mâu thuẫn.
Văn minh và đạo đức hoàn toàn không đồng nghĩa với nhau. Và đồng thời chúng cũng không tách biệt khỏi nhau. Đạo đức là cốt lõi của văn minh. Có thể đồng ý hoặc không đồng ý với điều đó. Nhưng đối với tôi thì đó là định lý, là định đề khởi thuỷ, bởi vì tôi tin tưởng sâu sắc rằng bất cứ một nền văn minh nào nếu đánh mất đạo đức, đánh mất phẩm chất tinh thần của mình hoặc làm suy yếu cơ sở đạo đức thì đều bị thoái hoá và sẽ phải rời khỏi vũ đài lịch sử. Lịch sử đã cung cấp cho chúng ta không ít dẫn chứng để xác nhận điều đó. Chỉ cần nhớ lại lịch sử Cổ La Mã.
Văn minh cũng không đồng nhất với khái niệm "văn hoá". Đó cũng là một trong những cái tạo nên các nền văn minh và chính nó xác định những chuẩn mực trong cách ứng xử của con người. Văn hoá gắn chặt với đạo đức và là một trong những phương thức, có lẽ thậm chí là phương thức quan trọng nhất, để ngăn chặn thói man rợ và sự gây hấn do các bậc tổ tiên xa xưa của chúng ta truyền lại cho chúng ta, và, thật đáng tiếc, đã thâm nhập vào gen di truyền của chúng ta như những quy luật của sinh học xã hội mà tổ tiên là những người tạo nên chúng.
Không bao giờ được quên rằng ông tổ chung của tất cả những người đang sống hiện nay, người Cro-Magnon, về mặt sinh học đã được hình thành cách đây hàng chục nghìn năm, khi họ sống giữa các loài thú rừng hùng mạnh và cấu tạo tâm lý của họ đã hầu như thích nghi với cuộc sống dã thú của những thời kỳ xa xưa ấy. Và sự hoàn thiện của con người đã chấm dứt chính khi đó, ở giai đoạn cuối của thời đại đồ đá cổ đại. Như thế có nghĩa là những đặc điểm tâm lý và sinh lý của con người nằm trong gen di truyền của chúng ta, những cái mà ngày nay chúng ta thừa hưởng, không thể là gì khác mà chính là kết quả của sự thích nghi với những điều kiện của cuộc sống thời kỳ tiền băng hà. Và chúng hoàn toàn không phù hợp với những điều kiện hiện nay của sự siêu hùng mạnh về kỹ thuật, của sự phát triển nhanh như vũ bão những kiến thức trong các lãnh vực rất khác nhau. Con người cần phải biết kịp thời điều chỉnh các quy luật xã hội sinh học vốn đã chi phối cuộc sống ở thời kỳ nguyên thuỷ và hiện nay không còn phù hợp với những điều kiện đã thay đổi của cuộc sống, bằng những quy tắc của sự chung sống, bằng đạo đức mới. Nếu làm khác là sẽ xảy ra tai hoạ, nếu làm khác sẽ xảy ra thảm hoạ! Đó chính là ý nghĩa của giai đoạn mang tính chất xã hội của sự tiến hoá xã hội mà cần phải biết đưa những người săn ma mút vào thời đại nguyên tử. Bởi thế xã hội ngày nay không thể sống thiếu "văn minh tinh thần", thiếu văn hoá, thiếu nghệ thuật, bởi thế con người mới cần đến những quy tắc của cách ứng xử văn minh, những quy tắc này bao gồm toàn bộ những điều cấm kỵ hoặc tabu như chúng được gọi ở buổi bình minh của đời sống văn minh hoặc những chuẩn mực pháp lý và đạo đức như chúng ta quen gọi hiện nay. Và vai trò của tất cả những nhân tố phi kinh tế, mang tính chất "thượng tầng kiến trúc" trong số phận của nhân loại sẽ gia tăng không kém phần nhanh chóng so với sự gia tăng của sự phức tạp trong cuộc sống chúng ta, sự phức tạp vì dung lượng của cái mà chúng ta quen gọi là hạ tầng cơ sở.
Văn minh và đạo đức hoàn toàn không đồng nghĩa với nhau. Và đồng thời chúng cũng không tách biệt khỏi nhau. Đạo đức là cốt lõi của văn minh. Có thể đồng ý hoặc không đồng ý với điều đó. Nhưng đối với tôi thì đó là định lý, là định đề khởi thuỷ, bởi vì tôi tin tưởng sâu sắc rằng bất cứ một nền văn minh nào nếu đánh mất đạo đức, đánh mất phẩm chất tinh thần của mình hoặc làm suy yếu cơ sở đạo đức thì đều bị thoái hoá và sẽ phải rời khỏi vũ đài lịch sử. Lịch sử đã cung cấp cho chúng ta không ít dẫn chứng để xác nhận điều đó. Chỉ cần nhớ lại lịch sử Cổ La Mã.
Văn minh cũng không đồng nhất với khái niệm "văn hoá". Đó cũng là một trong những cái tạo nên các nền văn minh và chính nó xác định những chuẩn mực trong cách ứng xử của con người. Văn hoá gắn chặt với đạo đức và là một trong những phương thức, có lẽ thậm chí là phương thức quan trọng nhất, để ngăn chặn thói man rợ và sự gây hấn do các bậc tổ tiên xa xưa của chúng ta truyền lại cho chúng ta, và, thật đáng tiếc, đã thâm nhập vào gen di truyền của chúng ta như những quy luật của sinh học xã hội mà tổ tiên là những người tạo nên chúng.
Không bao giờ được quên rằng ông tổ chung của tất cả những người đang sống hiện nay, người Cro-Magnon, về mặt sinh học đã được hình thành cách đây hàng chục nghìn năm, khi họ sống giữa các loài thú rừng hùng mạnh và cấu tạo tâm lý của họ đã hầu như thích nghi với cuộc sống dã thú của những thời kỳ xa xưa ấy. Và sự hoàn thiện của con người đã chấm dứt chính khi đó, ở giai đoạn cuối của thời đại đồ đá cổ đại. Như thế có nghĩa là những đặc điểm tâm lý và sinh lý của con người nằm trong gen di truyền của chúng ta, những cái mà ngày nay chúng ta thừa hưởng, không thể là gì khác mà chính là kết quả của sự thích nghi với những điều kiện của cuộc sống thời kỳ tiền băng hà. Và chúng hoàn toàn không phù hợp với những điều kiện hiện nay của sự siêu hùng mạnh về kỹ thuật, của sự phát triển nhanh như vũ bão những kiến thức trong các lãnh vực rất khác nhau. Con người cần phải biết kịp thời điều chỉnh các quy luật xã hội sinh học vốn đã chi phối cuộc sống ở thời kỳ nguyên thuỷ và hiện nay không còn phù hợp với những điều kiện đã thay đổi của cuộc sống, bằng những quy tắc của sự chung sống, bằng đạo đức mới. Nếu làm khác là sẽ xảy ra tai hoạ, nếu làm khác sẽ xảy ra thảm hoạ! Đó chính là ý nghĩa của giai đoạn mang tính chất xã hội của sự tiến hoá xã hội mà cần phải biết đưa những người săn ma mút vào thời đại nguyên tử. Bởi thế xã hội ngày nay không thể sống thiếu "văn minh tinh thần", thiếu văn hoá, thiếu nghệ thuật, bởi thế con người mới cần đến những quy tắc của cách ứng xử văn minh, những quy tắc này bao gồm toàn bộ những điều cấm kỵ hoặc tabu như chúng được gọi ở buổi bình minh của đời sống văn minh hoặc những chuẩn mực pháp lý và đạo đức như chúng ta quen gọi hiện nay. Và vai trò của tất cả những nhân tố phi kinh tế, mang tính chất "thượng tầng kiến trúc" trong số phận của nhân loại sẽ gia tăng không kém phần nhanh chóng so với sự gia tăng của sự phức tạp trong cuộc sống chúng ta, sự phức tạp vì dung lượng của cái mà chúng ta quen gọi là hạ tầng cơ sở.
***
Văn minh và những bộ phận cấu thành của nó - đạo đức, văn hoá, những quy tắc (những chuẩn mực pháp lý) đảm bảo sự kế thừa của các thế hệ, sự kế thừa của cách ưng xử và nếp tư duy của con người. Đó là ký ức đặc thù của con người, ký ức về kinh nghiệm tích cực mà nhân loại đã tích luỹ được từ những thời đại cổ xưa. Và ký ức này bao giờ cũng mở ngỏ đối với tương lai. Tất cả của cải văn minh không cho chúng ta những chế định chặt chẽ trong khi lựa chọn những hành động của chúng ta. Về phương diện này chúng tác động khác hẳn so với những phản xạ có điều kiện. Nhưng chúng bao giờ cũng là cội nguồn của sự tìm tòi trong việc khắc phục những khó khăn ập đến. Đó là những cái mốc chỉ rõ chiều hướng của chỗ nông trong dòng các sự kiện vốn được gọi là lịch sử.
Văn minh đồng thời cũng là màng lọc, tách sự dối trá đủ loại ra khỏi chân lý mà chúng ta không phải bao giờ cũng biết nhưng rất cần thiết cho con người như khí trời. Dấu hiệu đầu tiên về sự suy đồi của văn minh và sự thoái hoá của nhân dân - đó là sự truyền bá cái giả dối. Trở thành chuẩn mực của xã hội, cái giả dối, giống như bệnh di căn, bắt đầu thâm nhập vào cách ứng xử xã hội và vào ý thức xã hội, làm nó mất đi sức mạnh, niềm hy vọng, tinh thần lạc quan, làm nó mất đi niềm tin vào con người, vào khả năng của nó đối với những hành động tập thể có tính mục đích.
Tôi đã nhiều năm làm việc phân tích những hậu quả có thể xảy ra của chiến tranh hạt nhân. Tôi thử nghĩ rằng chuyện gì có thể xảy ra do những thảm hoạ sinh thái khác. Rút cục ở tôi nảy sinh một quan niệm về mệnh lệnh sinh thái và về người bạn đường không thể thiếu được của nó là mệnh lệnh đạo đức. Và tôi đã đi tới một nhận định rằng sự đoạn tuyệt giữa quá khứ và hiện tại đối với từng dân tộc riêng lẻ cũng như đối với cả loài người là một mối nguy vong không kém phần khủng khiếp như sự huỷ hoại mối liên hệ giữa con người và thiên nhiên. Những suy nghĩ như vậy buộc tôi phải hiểu, nói đúng hơn là thậm chí buộc tôi phải cảm nhận rằng văn minh, văn hoá, đạo đức là những cấu trúc tế nhị và mỏng manh. Không bao giờ được quên rằng đó là những cái màng mỏng ngăn cản dòng tình cảm sôi sục của con người và đôi khi dường như chỉ cần mình cử động nhẹ là cái dòng đó sẽ cuốn trôi những tấm chắn mỏng manh của văn minh và làm lộ ra cái bản chất nguyên thuỷ của con người.
Văn minh không bao giờ là vô bản sắc. Nó bao giờ cũng có gốc rễ dân tộc và lịch sử sâu sắc - trong ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo và trong những nguyên tắc đạo đức. Nếu những tư tưởng mới và những giáo điều mới không phù hợp với chúng thì những thứ này sẽ bị nhân dân bác bỏ.
Văn minh và những bộ phận cấu thành của nó - đạo đức, văn hoá, những quy tắc (những chuẩn mực pháp lý) đảm bảo sự kế thừa của các thế hệ, sự kế thừa của cách ưng xử và nếp tư duy của con người. Đó là ký ức đặc thù của con người, ký ức về kinh nghiệm tích cực mà nhân loại đã tích luỹ được từ những thời đại cổ xưa. Và ký ức này bao giờ cũng mở ngỏ đối với tương lai. Tất cả của cải văn minh không cho chúng ta những chế định chặt chẽ trong khi lựa chọn những hành động của chúng ta. Về phương diện này chúng tác động khác hẳn so với những phản xạ có điều kiện. Nhưng chúng bao giờ cũng là cội nguồn của sự tìm tòi trong việc khắc phục những khó khăn ập đến. Đó là những cái mốc chỉ rõ chiều hướng của chỗ nông trong dòng các sự kiện vốn được gọi là lịch sử.
Văn minh đồng thời cũng là màng lọc, tách sự dối trá đủ loại ra khỏi chân lý mà chúng ta không phải bao giờ cũng biết nhưng rất cần thiết cho con người như khí trời. Dấu hiệu đầu tiên về sự suy đồi của văn minh và sự thoái hoá của nhân dân - đó là sự truyền bá cái giả dối. Trở thành chuẩn mực của xã hội, cái giả dối, giống như bệnh di căn, bắt đầu thâm nhập vào cách ứng xử xã hội và vào ý thức xã hội, làm nó mất đi sức mạnh, niềm hy vọng, tinh thần lạc quan, làm nó mất đi niềm tin vào con người, vào khả năng của nó đối với những hành động tập thể có tính mục đích.
Tôi đã nhiều năm làm việc phân tích những hậu quả có thể xảy ra của chiến tranh hạt nhân. Tôi thử nghĩ rằng chuyện gì có thể xảy ra do những thảm hoạ sinh thái khác. Rút cục ở tôi nảy sinh một quan niệm về mệnh lệnh sinh thái và về người bạn đường không thể thiếu được của nó là mệnh lệnh đạo đức. Và tôi đã đi tới một nhận định rằng sự đoạn tuyệt giữa quá khứ và hiện tại đối với từng dân tộc riêng lẻ cũng như đối với cả loài người là một mối nguy vong không kém phần khủng khiếp như sự huỷ hoại mối liên hệ giữa con người và thiên nhiên. Những suy nghĩ như vậy buộc tôi phải hiểu, nói đúng hơn là thậm chí buộc tôi phải cảm nhận rằng văn minh, văn hoá, đạo đức là những cấu trúc tế nhị và mỏng manh. Không bao giờ được quên rằng đó là những cái màng mỏng ngăn cản dòng tình cảm sôi sục của con người và đôi khi dường như chỉ cần mình cử động nhẹ là cái dòng đó sẽ cuốn trôi những tấm chắn mỏng manh của văn minh và làm lộ ra cái bản chất nguyên thuỷ của con người.
Văn minh không bao giờ là vô bản sắc. Nó bao giờ cũng có gốc rễ dân tộc và lịch sử sâu sắc - trong ngôn ngữ, văn hoá, tôn giáo và trong những nguyên tắc đạo đức. Nếu những tư tưởng mới và những giáo điều mới không phù hợp với chúng thì những thứ này sẽ bị nhân dân bác bỏ.
***
Người đại diện cho văn hoá là giới trí thức. Nhưng không nên đồng nhất những người lao động trí óc, những người phụng sự văn hoá và giới trí thức. Tôi biết nhiều người ở ta cũng như ở nước ngoài đang nghiên cứu vô tuyến điện tử, đang lập trình hoá, những nghệ nhân xuất sắc, những người có trí tuệ rất đáng kính nhưng đồng thời tôi không dám gọi họ là những nhà trí thức. Ngày nay sự tiến bộ khoa học kỹ thuật đang dần dần xoá nhoà ranh giới giữa những người mặc áo cổ xanh và những người mặc áo cổ trắng. Nếu căn cứ theo lối sống, theo tính chất y phục và theo sự sung túc về mặt vật chất thì những loại người khác nhau bây giờ ít có những nét khác biệt.
Song điều đó hoàn toàn không có nghĩa là số lượng trí thức gia tăng một cách đáng kể, mặc dầu ý nghĩa của nó đối với số phận loài người gia tăng rất nhanh.
Người trí thức là người bao giờ cũng tìm tòi, không bó hẹp trong phạm vi chuyên môn của mình hoặc trong khuôn khổ những lợi ích có tính chất nhóm phái thuần tuý. Người trí thức luôn suy nghĩ đến số phận của dân tộc mình trong sự so sánh đối chiếu với những giá trị toàn nhân loại. Anh ta có khả năng vượt ra khỏi chân trời hạn hẹp của sự hạn chế về nghề nghiệp hoặc lối sống phàm tục. Theo tôi, một trong những người trí thức đầu tiên của Nga mà chúng ta biết tới là đại giáo chủ Avvakum: Vả lại, bất cứ một dân tộc nào bao giờ cũng có những nhà trí thức của mình.
Vào nửa sau thế kỷ XIX ở Nga đã xuất hiện một tầng lớp trí thức khá nổi bật với thế giới tinh thần, với những truyền thống, với chỗ mạnh và chỗ yếu của họ. Gần với tầng lớp này là sự cất cánh bay bổng kỳ diệu của nền văn hoá Nga vốn đã từng cung cấp cho thế giới những nhà văn, những hoạ sĩ, những nhạc sĩ và tất nhiên cả những nhà bác học trứ danh. Trong số trí thức có những người thuộc các đẳng cấp khác nhau: những nhà quý tộc, những quan chức cao cấp, những thương gia, tỷ như Tretjakov hoặc Mamontov. Còn giới trí thức khoa học - kỹ thuật Nga thì đại bộ phận của nó được hình thành từ những lớp người dân chủ bình dân.
Và cho dù gốc gác nhân dân có ăn sâu đến mấy đi nữa thì giới trí thức ở mức độ đáng kể bị tách khỏi nhân dân, giữa nhân dân và họ bao giờ cũng có một rào chắn nhất định. Rào chắn đó không thể không có. Thiên hạ có nhiều loại khác nhau và do bản chất và số phận nên không phải ai cũng có khả năng trừu tượng hoá khỏi những công việc bận bịu hàng ngày để suy nghĩ về cái "không trực tiếp liên quan đến họ". Và trình độ học vấn cũng không phải là đặc tính thừa! Bởi thế cho nên mới nảy sinh sự thoát ly dần dần của người trí thức.
Tuy thế, giới trí thức là máu thịt của nhân dân nước mình. Hơn nữa, sự hưng thịnh chung của văn hoá của dân tộc, lối sống dân tộc, những chuẩn mực tư duy của nó, tính chất của lợi ích và cái chủ yếu là sự bộc lộ tiềm năng về sáng tạo, về tinh thần và đạo đức trước hết phụ thuộc vào giới trí thức. Và tất cả những cái mới và hữu ích, kể cả cảm xúc về cái đẹp, về sự hài hoà, thậm chí nếu nó nảy sinh trong quần chúng nhân dân, đều được truyền bá qua giới trí thức như thấm qua tấm lọc rồi chỉ sau đó mới trở thành sở hữu chung của toàn dân. Vai trò đó của giới trí thức được đặc biệt thấy rõ qua sự tiến hoá của lối sống, của tính cách và những tập quán của nhân dân.
Sự biến mất của giới trí thức hay cuộc loại trừ nó ra khỏi đời sống tinh thần của xã hội - đó là tấn bi kịch của cả dân tộc. Điều đó có thể sẽ kết thúc bằng sự tiêu vong đạo đức của dân tộc đó. Dù sao chăng nữa thì đó là sự rút lui dần dần của dân tộc khỏi tiền đài của lịch sử để lui về phía hậu đài. Việc phục hồi giới trí thức đòi hỏi nhiều thế hệ. Không thể nói đến "việc đào tạo giới trí thức". Sự phát triển của giới trí thức, sự hình thành của nó là một quá trình khác biệt về chất so với việc đào tạo một công nhân lành nghề, một kỹ sư hay một nhà vật lý hạt nhân. Đó là quá trình tự nhiên về sự tự phát triển của dân tộc.
Người ta thường gọi giới trí thức là tầng lớp trung gian vì không xếp được nó vào một giai cấp nào cả. Mặc dù tồn tại những câu nói "giới trí thức tư sản", "giới trí thức vô sản" v.v…, tuy nhiên những cách nói như vậy không mang một ý nghĩa đặc biệt, bởi lẽ những lợi ích và mục đích của giới trí thức hoàn toàn không gắn với những lợi ích của một giai cấp này hay một giai cấp khác. Có thể dẫn ra nhiều thí dụ khi những người đại diện của cái gọi là giới trí thức quý tộc hay giới trí thức tư sản là những người biểu hiện lợi ích của giai cấp vô sản. Và ngược lại, những người xuất thân từ tầng lớp công nhân có thể đóng vai thầy cãi cho giai cấp tư sản. Việc sản sinh ra giới trí thức - đó là đặc tính của một dân tộc, đặc tính của bản chất xã hội và sinh học của nó, mặc dầu, lẽ dĩ nhiên là mỗi một người trí thức tuỳ thuộc vào tính chất giáo dục của mình và con đường đời của mình phản ánh những quan điểm này hay những quan điểm khác, những truyền thống này hay những truyền thống khác mang tính chất giai cấp, tính chất dân tộc...
Giới trí thức còn có thêm một đặc điểm nữa. Đó là việc nó hướng tới chủ nghĩa quốc tế, đó là tính chất thế giới của nó, nếu có thể nói như vậy. Người trí thức, xét theo bản chất của anh ta, có năng lực suy nghĩ về những vấn đề toàn nhân loại, cho dù anh ta thuộc về một dân tộc nào, theo bất cứ một tín ngưỡng nào, thuộc về bất cứ một đảng phái nào và có bất cứ một màu da nào. Tất nhiên không nên hình dung người trí thức bên ngoài dân tộc, thậm chí nếu anh ta có tự xưng là "công dân của thế giới" đi nữa. Tuy vậy những người trí thức của các nước khác nhau dễ dàng tìm ra được ngôn ngữ chung và lợi ích chung. Tôi đã có dịp nói chuyện với một người Nhật về âm nhạc Nga, với một người Mỹ La-tinh về chủ nghĩa chính thống của đạo Hồi. Chúng tôi rất khoái nhau và nếp tư duy của chúng tôi té ra là khá giống nhau. Dù sao tôi cũng hiểu người trí thức Nhật Bản hơn là hiểu người cán bộ đảng hoặc nhà kinh doanh trẻ tuổi hiện đại!
Trong một trăm năm gần đây trên thế giới chúng ta có nhiều thay đổi, và cuối thế kỷ này hoàn toàn không giống phần đầu của nó. Vai trò của yếu tố trí tuệ trong số phận nhân loại đã gia tăng rất mạnh, do đó vai trò của giới trí thức, ý nghĩa của văn hoá, của yếu tố tinh thần và nhân bản cũng gia tăng.
Nhưng cái chủ yếu nhất mà giới trí thức cuối thế kỷ XX đã hiểu ra, như tôi hy vọng, là không bao giờ có thể tiêu diệt hoàn toàn bất cứ một cái gì: chỉ có sự tiến triển dần dần và rất thận trọng mới có khả năng bảo vệ được một tác phẩm đẹp nhất và mỏng manh nhất của thiên tài nhân loại - đó là văn minh và văn hoá, mà như thế cũng nghĩa là bảo vệ niềm hy vọng về "sự tồn tại của loài người".
Nền văn hoá và khoa học Nga vào những năm 20 và đầu những năm 30 đã bị mất cả một lớp người đại diện ưu tú của nó như: Chichibabin, Ipat'ev, Gamov, Kandinski, Shagal, Benua, Shaljapin, Rakhmaninov và nhiều người khác... Lunacharski, Bukharin và các nhà hoạt động trí óc khác của đảng ở thời tiền Stalin không thể hiểu và cảm nhận được rằng cái khẩu hiệu "Ai hôm nay không hát cùng với chúng ta tức là kẻ đó chống lại chúng ta" mà vào những năm đó từng được căng trên mặt tiền của toà nhà Viện bảo tàng Lenin và việc áp dụng triệt để nó vào cuộc sống - đó là một trong những nguyên nhân sâu xa của sự lạc hậu ngày nay của chúng ta không chỉ vè mặt văn hoá mà cả về mặt công nghệ học so với những nước phát triển!
Có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận chủ nghĩa tiên phong đa dạng và sự "kỳ cục" của những hoạ sĩ và thi sĩ của những năm 20. Họ có thể được ưa chuộng hoặc không được ưa chuộng, và trong số họ có thể có không chỉ những thiên tài lên tiếng ca ngợi tổ quốc mình. Trong số đó chắc chắn cũng sẽ có những kẻ bất tài và những kẻ đầu cơ về "mốt" - tôi sẵn sàng thừa nhận rằng họ nhiều vô thiên lủng. Nhưng đồng thời tôi cũng tin sâu sắc rằng lớp váng bọt đó sẽ nhanh chóng trôi qua. Nhìn chung, tất cả những cái "tiên phong chủ nghĩa" là tiền đề tất yếu của sự đi tìm đường cho sự phát triển hợp lý. Nếu không có những sự tìm tòi như vậy thì xã hội và nền văn hoá của nó nhất định sẽ có lúc bế tắc. Và tiên đoán một cách chính xác xem con đường nào trong số đó sẽ là con đường duy nhất cần thiết cho chúng ta - điều này khó hơn nhiều so với việc đoán trước thời tiết một tháng. Tôi khẳng định điều đó với tư cách là một người chuyên nghiệp biết được rằng tạo ra một sự dự báo như vậy thật khó khăn biết chừng nào!
Rõ ràng là việc đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và kỹ sư giỏi không khó khăn cho lắm. Và ở đây chúng ta khá thành công. Cuộc chiến tranh vệ quốc, thời kỳ khôi phục hậu chiến và lịch sử xây dựng tiềm năng tên lửa hạt nhân đã cho thấy điều đó. Còn sự hình thành các nhà tư tưởng, tức là giới trí thức - những triết gia, như người Pháp ở thế kỷ XVIII đã gọi họ, lại đòi hỏi nhiều thế hệ.
Người đại diện cho văn hoá là giới trí thức. Nhưng không nên đồng nhất những người lao động trí óc, những người phụng sự văn hoá và giới trí thức. Tôi biết nhiều người ở ta cũng như ở nước ngoài đang nghiên cứu vô tuyến điện tử, đang lập trình hoá, những nghệ nhân xuất sắc, những người có trí tuệ rất đáng kính nhưng đồng thời tôi không dám gọi họ là những nhà trí thức. Ngày nay sự tiến bộ khoa học kỹ thuật đang dần dần xoá nhoà ranh giới giữa những người mặc áo cổ xanh và những người mặc áo cổ trắng. Nếu căn cứ theo lối sống, theo tính chất y phục và theo sự sung túc về mặt vật chất thì những loại người khác nhau bây giờ ít có những nét khác biệt.
Song điều đó hoàn toàn không có nghĩa là số lượng trí thức gia tăng một cách đáng kể, mặc dầu ý nghĩa của nó đối với số phận loài người gia tăng rất nhanh.
Người trí thức là người bao giờ cũng tìm tòi, không bó hẹp trong phạm vi chuyên môn của mình hoặc trong khuôn khổ những lợi ích có tính chất nhóm phái thuần tuý. Người trí thức luôn suy nghĩ đến số phận của dân tộc mình trong sự so sánh đối chiếu với những giá trị toàn nhân loại. Anh ta có khả năng vượt ra khỏi chân trời hạn hẹp của sự hạn chế về nghề nghiệp hoặc lối sống phàm tục. Theo tôi, một trong những người trí thức đầu tiên của Nga mà chúng ta biết tới là đại giáo chủ Avvakum: Vả lại, bất cứ một dân tộc nào bao giờ cũng có những nhà trí thức của mình.
Vào nửa sau thế kỷ XIX ở Nga đã xuất hiện một tầng lớp trí thức khá nổi bật với thế giới tinh thần, với những truyền thống, với chỗ mạnh và chỗ yếu của họ. Gần với tầng lớp này là sự cất cánh bay bổng kỳ diệu của nền văn hoá Nga vốn đã từng cung cấp cho thế giới những nhà văn, những hoạ sĩ, những nhạc sĩ và tất nhiên cả những nhà bác học trứ danh. Trong số trí thức có những người thuộc các đẳng cấp khác nhau: những nhà quý tộc, những quan chức cao cấp, những thương gia, tỷ như Tretjakov hoặc Mamontov. Còn giới trí thức khoa học - kỹ thuật Nga thì đại bộ phận của nó được hình thành từ những lớp người dân chủ bình dân.
Và cho dù gốc gác nhân dân có ăn sâu đến mấy đi nữa thì giới trí thức ở mức độ đáng kể bị tách khỏi nhân dân, giữa nhân dân và họ bao giờ cũng có một rào chắn nhất định. Rào chắn đó không thể không có. Thiên hạ có nhiều loại khác nhau và do bản chất và số phận nên không phải ai cũng có khả năng trừu tượng hoá khỏi những công việc bận bịu hàng ngày để suy nghĩ về cái "không trực tiếp liên quan đến họ". Và trình độ học vấn cũng không phải là đặc tính thừa! Bởi thế cho nên mới nảy sinh sự thoát ly dần dần của người trí thức.
Tuy thế, giới trí thức là máu thịt của nhân dân nước mình. Hơn nữa, sự hưng thịnh chung của văn hoá của dân tộc, lối sống dân tộc, những chuẩn mực tư duy của nó, tính chất của lợi ích và cái chủ yếu là sự bộc lộ tiềm năng về sáng tạo, về tinh thần và đạo đức trước hết phụ thuộc vào giới trí thức. Và tất cả những cái mới và hữu ích, kể cả cảm xúc về cái đẹp, về sự hài hoà, thậm chí nếu nó nảy sinh trong quần chúng nhân dân, đều được truyền bá qua giới trí thức như thấm qua tấm lọc rồi chỉ sau đó mới trở thành sở hữu chung của toàn dân. Vai trò đó của giới trí thức được đặc biệt thấy rõ qua sự tiến hoá của lối sống, của tính cách và những tập quán của nhân dân.
Sự biến mất của giới trí thức hay cuộc loại trừ nó ra khỏi đời sống tinh thần của xã hội - đó là tấn bi kịch của cả dân tộc. Điều đó có thể sẽ kết thúc bằng sự tiêu vong đạo đức của dân tộc đó. Dù sao chăng nữa thì đó là sự rút lui dần dần của dân tộc khỏi tiền đài của lịch sử để lui về phía hậu đài. Việc phục hồi giới trí thức đòi hỏi nhiều thế hệ. Không thể nói đến "việc đào tạo giới trí thức". Sự phát triển của giới trí thức, sự hình thành của nó là một quá trình khác biệt về chất so với việc đào tạo một công nhân lành nghề, một kỹ sư hay một nhà vật lý hạt nhân. Đó là quá trình tự nhiên về sự tự phát triển của dân tộc.
Người ta thường gọi giới trí thức là tầng lớp trung gian vì không xếp được nó vào một giai cấp nào cả. Mặc dù tồn tại những câu nói "giới trí thức tư sản", "giới trí thức vô sản" v.v…, tuy nhiên những cách nói như vậy không mang một ý nghĩa đặc biệt, bởi lẽ những lợi ích và mục đích của giới trí thức hoàn toàn không gắn với những lợi ích của một giai cấp này hay một giai cấp khác. Có thể dẫn ra nhiều thí dụ khi những người đại diện của cái gọi là giới trí thức quý tộc hay giới trí thức tư sản là những người biểu hiện lợi ích của giai cấp vô sản. Và ngược lại, những người xuất thân từ tầng lớp công nhân có thể đóng vai thầy cãi cho giai cấp tư sản. Việc sản sinh ra giới trí thức - đó là đặc tính của một dân tộc, đặc tính của bản chất xã hội và sinh học của nó, mặc dầu, lẽ dĩ nhiên là mỗi một người trí thức tuỳ thuộc vào tính chất giáo dục của mình và con đường đời của mình phản ánh những quan điểm này hay những quan điểm khác, những truyền thống này hay những truyền thống khác mang tính chất giai cấp, tính chất dân tộc...
Giới trí thức còn có thêm một đặc điểm nữa. Đó là việc nó hướng tới chủ nghĩa quốc tế, đó là tính chất thế giới của nó, nếu có thể nói như vậy. Người trí thức, xét theo bản chất của anh ta, có năng lực suy nghĩ về những vấn đề toàn nhân loại, cho dù anh ta thuộc về một dân tộc nào, theo bất cứ một tín ngưỡng nào, thuộc về bất cứ một đảng phái nào và có bất cứ một màu da nào. Tất nhiên không nên hình dung người trí thức bên ngoài dân tộc, thậm chí nếu anh ta có tự xưng là "công dân của thế giới" đi nữa. Tuy vậy những người trí thức của các nước khác nhau dễ dàng tìm ra được ngôn ngữ chung và lợi ích chung. Tôi đã có dịp nói chuyện với một người Nhật về âm nhạc Nga, với một người Mỹ La-tinh về chủ nghĩa chính thống của đạo Hồi. Chúng tôi rất khoái nhau và nếp tư duy của chúng tôi té ra là khá giống nhau. Dù sao tôi cũng hiểu người trí thức Nhật Bản hơn là hiểu người cán bộ đảng hoặc nhà kinh doanh trẻ tuổi hiện đại!
Trong một trăm năm gần đây trên thế giới chúng ta có nhiều thay đổi, và cuối thế kỷ này hoàn toàn không giống phần đầu của nó. Vai trò của yếu tố trí tuệ trong số phận nhân loại đã gia tăng rất mạnh, do đó vai trò của giới trí thức, ý nghĩa của văn hoá, của yếu tố tinh thần và nhân bản cũng gia tăng.
Nhưng cái chủ yếu nhất mà giới trí thức cuối thế kỷ XX đã hiểu ra, như tôi hy vọng, là không bao giờ có thể tiêu diệt hoàn toàn bất cứ một cái gì: chỉ có sự tiến triển dần dần và rất thận trọng mới có khả năng bảo vệ được một tác phẩm đẹp nhất và mỏng manh nhất của thiên tài nhân loại - đó là văn minh và văn hoá, mà như thế cũng nghĩa là bảo vệ niềm hy vọng về "sự tồn tại của loài người".
Nền văn hoá và khoa học Nga vào những năm 20 và đầu những năm 30 đã bị mất cả một lớp người đại diện ưu tú của nó như: Chichibabin, Ipat'ev, Gamov, Kandinski, Shagal, Benua, Shaljapin, Rakhmaninov và nhiều người khác... Lunacharski, Bukharin và các nhà hoạt động trí óc khác của đảng ở thời tiền Stalin không thể hiểu và cảm nhận được rằng cái khẩu hiệu "Ai hôm nay không hát cùng với chúng ta tức là kẻ đó chống lại chúng ta" mà vào những năm đó từng được căng trên mặt tiền của toà nhà Viện bảo tàng Lenin và việc áp dụng triệt để nó vào cuộc sống - đó là một trong những nguyên nhân sâu xa của sự lạc hậu ngày nay của chúng ta không chỉ vè mặt văn hoá mà cả về mặt công nghệ học so với những nước phát triển!
Có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận chủ nghĩa tiên phong đa dạng và sự "kỳ cục" của những hoạ sĩ và thi sĩ của những năm 20. Họ có thể được ưa chuộng hoặc không được ưa chuộng, và trong số họ có thể có không chỉ những thiên tài lên tiếng ca ngợi tổ quốc mình. Trong số đó chắc chắn cũng sẽ có những kẻ bất tài và những kẻ đầu cơ về "mốt" - tôi sẵn sàng thừa nhận rằng họ nhiều vô thiên lủng. Nhưng đồng thời tôi cũng tin sâu sắc rằng lớp váng bọt đó sẽ nhanh chóng trôi qua. Nhìn chung, tất cả những cái "tiên phong chủ nghĩa" là tiền đề tất yếu của sự đi tìm đường cho sự phát triển hợp lý. Nếu không có những sự tìm tòi như vậy thì xã hội và nền văn hoá của nó nhất định sẽ có lúc bế tắc. Và tiên đoán một cách chính xác xem con đường nào trong số đó sẽ là con đường duy nhất cần thiết cho chúng ta - điều này khó hơn nhiều so với việc đoán trước thời tiết một tháng. Tôi khẳng định điều đó với tư cách là một người chuyên nghiệp biết được rằng tạo ra một sự dự báo như vậy thật khó khăn biết chừng nào!
Rõ ràng là việc đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật và kỹ sư giỏi không khó khăn cho lắm. Và ở đây chúng ta khá thành công. Cuộc chiến tranh vệ quốc, thời kỳ khôi phục hậu chiến và lịch sử xây dựng tiềm năng tên lửa hạt nhân đã cho thấy điều đó. Còn sự hình thành các nhà tư tưởng, tức là giới trí thức - những triết gia, như người Pháp ở thế kỷ XVIII đã gọi họ, lại đòi hỏi nhiều thế hệ.
***
Như vậy là giới trí thức là một trong những bảo đảm quan trọng hạng nhất cho sức sống của xã hội. Nhờ có giới trí thức mà xã hội có khả năng đón nhận cái mới và cái chưa được biết đến với cuộc sống chúng ta, có khả năng đem thích nghi với những điều kiện mới không chỉ cơ sở vật chất mà còn cả nếp tư duy và đạo đức. Và mức độ gia tăng sự lạc hậu về kỹ thuật của chúng ta trên ngưỡng cửa của sự biến đổi nhanh chóng về cơ sở công nghệ của sự phát triển xã hội, những khó khăn mà chúng ta gặp trong công cuộc cải tổ cách tư duy, cách nhận thức về yêu cầu công nghệ và về sự cần thiết của đạo đức mới phần nhiều là hậu quả của sự hạ thấp "tiềm năng trí tuệ".
Nhưng cho dù lịch sử của chúng ta có nặng nề đến đâu chăng nữa, cho dù chúng ta phải chịu những tổn thất như thế nào chăng nữa thì mối liên hệ về thời gian không bao giờ bị đứt đoạn. Chúng ta không phải là những anh chàng Ivan vô thừa nhận không nhớ tổ tiên dòng giống của mình. Chúng ta đã giữ gìn mình với tư cách là những người kế thừa nền văn hoá vĩ đại. Và ký ức của nhân dân, ký ức của giới trí thức được bảo tồn nhờ những bậc vĩ nhân như Vernadski hoặc Timofeev, Rezovski nhờ những chiến sĩ đấu tranh quên mình như Sakharov, Losev. Và nhờ nhiều người khác đã duy trì được "những cây nến đã thắp sáng" và chuyển giao cho cuộc chạy tiếp sức. Bây giờ chỉ cần tạo ra bầu không khí để ngọn lửa leo lét lại cháy bùng lên thành một đống lửa, như điều đó đã hơn một lần xảy ra trong lịch sử chúng ta sau những thời kỳ rối loạn. Và về chuyện này giới trí thức phải có trách nhiệm. Tôi muốn hy vọng rằng thay vì cuộc đấu tranh để giành "ghế" mà trong đó giới trí thức đằng nào cũng thất bại, nó sẽ chuyên tâm làm những công việc thực sự là đặc trưng của nó!
Vào những năm gần đây giới trí thức bắt đầu dần dần được phục hồi. Ngọn gió ấm áp đã thổi, sự trói buộc đã được nới lỏng và "sự cựa quậy của trí tuệ" đã bắt đầu. Hiện nay mới chỉ cựa quậy thôi! Còn sự vận động thực sự thì sẽ phải xuất hiện. Nhưng chất đất đã khác rồi. Tôi nghĩ rằng văn hoá nông thôn và cái nền văn minh đặc biệt mà Toynbee từng suy nghĩ, đã vĩnh viễn bị phá huỷ. Đang nảy sinh một cái gì mới. Cái gì từ quá khứ sẽ nhập vào nền văn hoá đó? Đó là những câu hỏi hết sức hóc búa, nhưng cần phải trả lời chúng. Nếu không thì sẽ bắt đầu những cuộc thí nghiệm mới và những sự phá huỷ mới.
Và sau hết, còn một điều cuối cùng. Đang diễn ra sự tiến triển rất nhanh chóng của toàn xã hội. Cuộc luận chiến càng ngày càng gay gắt. Nhưng tôi cảm thấy rằng hiện nay nó còn mang tính chất rất tư biện và trừu tượng. Không thể chỉ nói về cuộc sống của xã hội nói chung. Tổ chức của xã hội, sự ổn định của nó, phúc lợi của nhân dân, những triển vọng được mở ra cho mọi người - tất cả những cái đó gắn bó khăng khít với toàn bộ lịch sử. Và mỗi dân tộc, mỗi nước, thậm chí mỗi khu vực đều có con đường riêng của mình. Tuy nhiên cũng tồn tại những quy luật phát triển chung, nhất là ở thế kỷ chúng ta trước ngưỡng cửa của cuộc khủng hoảng sinh thái, của sự tăng nhanh lực lượng sản xuất và sự tăng cường mạnh mẽ mối quan hệ qua lại của con người.
Đã đến lúc giới trí thức phải thôi là những người "sùng bái phương Tây" và những người "sùng bái Slavo" và cần phải nhìn thẳng vào những đặc điểm thực tế của cuộc sống hiện nay. Đã đến lúc phải khước từ những nguyên tắc của "những không tưởng vĩ đại", khước từ thái độ ngạo mạn chính trị riêng tư hoặc "sự khao khát phục thù" và phải hiểu rằng trên thế giới cũng như trong con sông chảy ở vùng núi có luồng chính và thật bất hạnh cho kẻ bơi lội nào không muốn đi theo luồng nước đó.
Lê Sơn dịch (theo báo "Kul'tura" của Nga)
Theo Tia Sáng Như vậy là giới trí thức là một trong những bảo đảm quan trọng hạng nhất cho sức sống của xã hội. Nhờ có giới trí thức mà xã hội có khả năng đón nhận cái mới và cái chưa được biết đến với cuộc sống chúng ta, có khả năng đem thích nghi với những điều kiện mới không chỉ cơ sở vật chất mà còn cả nếp tư duy và đạo đức. Và mức độ gia tăng sự lạc hậu về kỹ thuật của chúng ta trên ngưỡng cửa của sự biến đổi nhanh chóng về cơ sở công nghệ của sự phát triển xã hội, những khó khăn mà chúng ta gặp trong công cuộc cải tổ cách tư duy, cách nhận thức về yêu cầu công nghệ và về sự cần thiết của đạo đức mới phần nhiều là hậu quả của sự hạ thấp "tiềm năng trí tuệ".
Nhưng cho dù lịch sử của chúng ta có nặng nề đến đâu chăng nữa, cho dù chúng ta phải chịu những tổn thất như thế nào chăng nữa thì mối liên hệ về thời gian không bao giờ bị đứt đoạn. Chúng ta không phải là những anh chàng Ivan vô thừa nhận không nhớ tổ tiên dòng giống của mình. Chúng ta đã giữ gìn mình với tư cách là những người kế thừa nền văn hoá vĩ đại. Và ký ức của nhân dân, ký ức của giới trí thức được bảo tồn nhờ những bậc vĩ nhân như Vernadski hoặc Timofeev, Rezovski nhờ những chiến sĩ đấu tranh quên mình như Sakharov, Losev. Và nhờ nhiều người khác đã duy trì được "những cây nến đã thắp sáng" và chuyển giao cho cuộc chạy tiếp sức. Bây giờ chỉ cần tạo ra bầu không khí để ngọn lửa leo lét lại cháy bùng lên thành một đống lửa, như điều đó đã hơn một lần xảy ra trong lịch sử chúng ta sau những thời kỳ rối loạn. Và về chuyện này giới trí thức phải có trách nhiệm. Tôi muốn hy vọng rằng thay vì cuộc đấu tranh để giành "ghế" mà trong đó giới trí thức đằng nào cũng thất bại, nó sẽ chuyên tâm làm những công việc thực sự là đặc trưng của nó!
Vào những năm gần đây giới trí thức bắt đầu dần dần được phục hồi. Ngọn gió ấm áp đã thổi, sự trói buộc đã được nới lỏng và "sự cựa quậy của trí tuệ" đã bắt đầu. Hiện nay mới chỉ cựa quậy thôi! Còn sự vận động thực sự thì sẽ phải xuất hiện. Nhưng chất đất đã khác rồi. Tôi nghĩ rằng văn hoá nông thôn và cái nền văn minh đặc biệt mà Toynbee từng suy nghĩ, đã vĩnh viễn bị phá huỷ. Đang nảy sinh một cái gì mới. Cái gì từ quá khứ sẽ nhập vào nền văn hoá đó? Đó là những câu hỏi hết sức hóc búa, nhưng cần phải trả lời chúng. Nếu không thì sẽ bắt đầu những cuộc thí nghiệm mới và những sự phá huỷ mới.
Và sau hết, còn một điều cuối cùng. Đang diễn ra sự tiến triển rất nhanh chóng của toàn xã hội. Cuộc luận chiến càng ngày càng gay gắt. Nhưng tôi cảm thấy rằng hiện nay nó còn mang tính chất rất tư biện và trừu tượng. Không thể chỉ nói về cuộc sống của xã hội nói chung. Tổ chức của xã hội, sự ổn định của nó, phúc lợi của nhân dân, những triển vọng được mở ra cho mọi người - tất cả những cái đó gắn bó khăng khít với toàn bộ lịch sử. Và mỗi dân tộc, mỗi nước, thậm chí mỗi khu vực đều có con đường riêng của mình. Tuy nhiên cũng tồn tại những quy luật phát triển chung, nhất là ở thế kỷ chúng ta trước ngưỡng cửa của cuộc khủng hoảng sinh thái, của sự tăng nhanh lực lượng sản xuất và sự tăng cường mạnh mẽ mối quan hệ qua lại của con người.
Đã đến lúc giới trí thức phải thôi là những người "sùng bái phương Tây" và những người "sùng bái Slavo" và cần phải nhìn thẳng vào những đặc điểm thực tế của cuộc sống hiện nay. Đã đến lúc phải khước từ những nguyên tắc của "những không tưởng vĩ đại", khước từ thái độ ngạo mạn chính trị riêng tư hoặc "sự khao khát phục thù" và phải hiểu rằng trên thế giới cũng như trong con sông chảy ở vùng núi có luồng chính và thật bất hạnh cho kẻ bơi lội nào không muốn đi theo luồng nước đó.
Lê Sơn dịch (theo báo "Kul'tura" của Nga)
---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Facebook giai thoại và những con số thống kê
Tỉ phú, triệu phú Mỹ trẻ tuổi không màng ăn chơi, chỉ muốn phục vụ nhân loại
Bình thường khi trở thành triệu phú, tỉ phú,
người ta thường lo an hưởng những thành quả mà họ tạo dựng được. Số
người bỏ tiền ra để mua một cuộc sống xa hoa, những thú ăn chơi tốn kém
là chuyện rất thường xảy ra, nhất là khi người ta tạo dựng được một tài
sản to lớn mà lại còn trẻ. Thế nhưng nhà tỉ phú Dustin Moskovitz mới 27
tuổi tự tay tạo dựng cơ nghiệp đã không màng đến những chuyện tiêu tiền
ăn chơi bốc giời, mà trái lại vẫn lao vào công việc làm ăn, không vì
tiền mà vì những ý hướng nghiêm chỉnh hơn.
Tỉ phú Mỹ Dustin Moskovitz |
Đồng sáng lập viên Facebook và trước đây là bạn cùng phòng ở đại học Harvard của Mark Zuckerberg, ông Dustin Moskovitz, 27 tuổi , được coi như nhà tỉ phú thân lập thân trẻ nhất thế giới. Nhưng ông không tự mãn an hưởng xa hoa, nhung lụa.
Ông vẫn lao vào công việc, thành lập một công ty trong vùng San Francisco, mặc dù một khi Facebook niêm yết trên thị trường chứng khoán, tài sản của ông có thể sẽ còn gia tăng vượt mức. Năm 2008, ông cùng với một người bạn, cũng từng làm việc cho Facebook, ông Justin Rosenstein năm nay mới 28 tuổi, có tài sản cỡ 150 triệu đô la, thành lập công ty Asana trong vùng San Francisco. Những người trẻ này không làm vì cần tiền. Với tài sản đó, họ thừa điều kiện ăn tiêu thoải mái cả đời không hết.
Trong một cuộc phỏng vấn tại San Francisco được hãng AP thuật lại, hai người trẻ này nói họ đến sở làm mỗi ngày vì họ thấy cần phải làm một chuyện gì đó cho cuộc đời trước mặt.
Triệu phú Rosenstein nói: ”Khi chúng tôi nghĩ đến công việc, chúng tôi coi đó như đó một hành động phục vụ, một hành động do tình yêu nhân loại.” Và ông Moskovitz cho rằng nếu giải nghệ, nghỉ hưu thì họ chẳng phục vụ cho ai cả. Hai ông thành lập công ty Asana, mới đây vừa tung ra thị trường nhu liệu dùng phải trả tiền, cho dịch vụ online để quản lý các dự án.
Không những chỉ làm việc, mà họ làm việc siêng năng cần mẫn do ý thích thúc đẩy.
Đã vậy, họ không màng đến những hào nhoáng, xa hoa mà cũng không cần phải xác định rõ địa vị chỉ huy công ty của họ bằng hình thức bề ngoài . Công ty có tất cả 24 người. Hai ông chủ không lập văn phòng riêng. Họ ngồi chung với những nhân viên khác, và ăn vận xuyềnh xoàng, không cổ cồn, cà vạt, người thì áo sơ mi bỏ ngoài quần, người thì mặc áo len và đi giày thể thao. Trong khu xóm họ ở, họ có thể hòa đồng ngay vào với rất nhiều người trẻ hơi có tí lập dị.
Không hộ tống, không ồn ào, ông Rosenstein thích đi lại bằng xe đạp và mới đây còn bị đạo chích thuổng mất chiếc xe!
Thế nhưng nhân viên làm việc cho Asana được tham gia những lớp yoga miễn phí, có đầu bếp đến nấu ăn cho cả sở, và mỗi nhân viên mới được dành cho 10 ngàn đô la để mua những máy điện toán, nhu liệu và những dụng cụ cần thiết cho công việc của họ.
Chỉ có một điều khiến họ khác nhau, đó là mỗi người có hoàn toàn tự do theo đuổi viễn kiến riêng để làm sao thay đổi thế giới. Và họ tin chắc những sản phẩm của họ sẽ có hiệu quả đúng theo ý họ. Nói cho cùng, trong tư thế của những kỹ sư đầu tiên thành lập Facebook, họ đã chứng kiến sáng tạo cuả họ giúp thay đổi được thế giới một lần rồi. Theo ông Rosenstein, công ty Asana sẽ tìm cách đưa ra những nhu liệu để tiến hành công việc thường nhật dễ dàng hầu giúp người ta rảnh tay theo đuổi những mục tiêu quan trọng hơn, như nghiên cứu chữa trị ung thư, chế tạo phi thuyền không gian, hay sáng tác nghệ thuật v..v..
Asana cho biết nhiều công ty công nghệ lớn đã đón nhận Asana, như Twitter, LinkedIn và Foursquare. Ngoài ra nhiều nhà đầu tư nổi tiếng cũng ủng hộ Asana.
Hiện ông Moskowitz nắm giữ 7,6% cổ phần của Facebook, tính ra trị giá đến hơn 4 tỉ đô la trước khi công ty niêm yết trên thị trường.
Cũng giống như nhiều người giàu nhất nước Mỹ, tỉ phú Moskovitz đã đua ra lời cam kết cho đi gần hết tiền bạc mà ông có, theo như đề xướng của ông bà Bill và Melinda Gates và ông Warren Buffett. Cô Cari Tuna, bạn gái, hôn thê sống chung của ông, cựu ký giả tờ báo Wall Street Journal chuyên về thị trường chứng khoán, hiện đang giúp ông điều hành một quĩ từ thiện đang bắt đầu hoạt động.
Tờ tạp chí Forbes số ra ngày 30 tháng tư mới đây, có liệt kê tên của những tỉ phú độc thân trên thế giới, từ trẻ đến già, để giúp ai mang mộng sánh duyên với tỉ phú có tí chút hy vọng!
Một số những phụ nữ đã kết hôn với các tỉ phú, như bà Melinda Gates hay Susan Buffett, vợ đầu đã qua đời hoặc Astrid Menks, người vợ hiện nay của tỉ phú Buffett, đều là những phụ nữ không thuộc loại nhan sắc như siêu mẫu hay minh tinh màn bạc nhưng họ đều là những người chừng mực, nghiêm túc đáng kính trọng.
Một trong những nhà tỉ phú Mỹ hiện độc thân nhưng đã ly dị một đời vợ và vừa ly thân với người vợ thứ nhì, ông Elon Musk, khi được hỏi là còn tin vào tình yêu hay không, ông trả lời:” vẫn hoàn toàn tin tưởng.” Mới đây ông phác họa với ký giả Hannah Elliott của tờ Forbes về mẫu người mà ông có thể kết hôn, đó là một người phải vị tha, làm việc siêng năng và thực tế. Khi được nữ ký giả này gặng hỏi là ông cảm thấy như thế nào nếu ông không tìm ra người đúng ý, ông trả lời “thật là buồn vì tôi sẽ không có ai cả.”
*****************************************************
Facebook có 900 triệu người sử dụng
Biểu đồ về người sử dụng Facebook |
Facebook nói nhiệm vụ của trang web này là “làm cho thế giới cởi mở hơn và liên kết với nhau.”
Facebook là một trang mạng xã hội giúp cho mọi người tiếp xúc với gia đình và bạn bè và kết nối những người có những lợi ích giống nhau trên toàn thế giới, tất cả đều qua máy vi tính.
Trang mạng xã hội này rất thông dụng, với hơn 900 triệu người sử dụng. Nếu là một quốc gia, Facebook có số dân gấp 3 lần dân số Hoa Kỳ.Các tài liệu đệ trình lên các kiểm soát viên tài chánh Hoa Kỳ cho biết Facebook có hàng trăm triệu người tích cực sử dụng, họ gởi hàng tỉ tin nhắn mỗi ngày và đưa lên mạng 250 triệu hình ảnh trên những trang mạng cá nhân của họ. Những người sử dụng Facebook đã ghi tên 100 triệu “người bạn”
Trên Facebook, “làm bạn” với ai có nghĩa là thêm tên người đó vào danh sách những người bạn có thể trao đổi thông tin một cách trực tiếp, và thường cho phép người đó thấy nhiều tin tức về bạn hơn là bạn chia sẻ tin tức này với công chúng.
Facebook do ông Mark Zuckerberg và những sinh viên khác tại trường đại học Harvard khởi xướng vào năm 2004 và đã tăng trưởng một cách vô cùng nhanh chóng.
Facebook làm ra tiền khi những người quảng cáo trả tiền để có thể tiếp cận với hàng trăm triệu người sử dụng Facebook.
Các nhà quảng cáo thường đưa trực tiếp thông tin đến những người quan tâm đến những sản phẩm của họ vì Facebook lưu giữ những thông tin người sử dụng đưa lên trang của họ. Chẳng hạn như một người quan tâm đến môn thể thao lặn dưới nước, lập kế hoạch tổ chức một đám cưới, tìm việc làm, hay bị bệnh tiểu đường có thể xem những quảng cáo liên hệ đến những đề tài này.
Facebook đã trở thành một phần của văn hóa Hoa Kỳ cùng những nước khác và đã trở thành đề tài của một bộ phim Hollywood, một dụng cụ tiếp thị quan trọng cho nhiều doanh nghiệp, và nội dung của một số trang Facebook đã được sử dụng làm bằng chứng trong một số vụ ly dị và tội phạm.
*****************************************************
Giá trị của Facebook ước đạt 96 tỷ đôla
Facebook, mạng xã hội có hơn 900 triệu người sử dụng trên khắp thế giới, sắp phát hành cổ phiếu ra công chúng.
Hôm qua, Facebook loan báo họ sẽ chào bán cổ phiếu lần đầu tiên ra công chúng với giá bán khoảng 28 đôla đến 35 đôla một cổ phiếu. Với giá này, Facebook sẽ có giá trị lên tới 96 tỷ đôla.
Các giám đốc điều hành của Facebook sẽ tổ chức một sự kiện mà họ gọi là “một cuộc trình diễn lưu động” ở một số thành phố lớn của Mỹ để thu hút các nhà đầu tư. Họ hy vọng cổ phiếu sẽ sẵn sàng và được chào bán trên sàn NASDAQ vào giữa tháng Năm.
Tổng Giám đốc điều hành Facebook, ông Mark Zuckerberg thành lập Facebook ngay tại phòng ký túc xá của ông ở trường đại học Harvard cách đây mới 8 năm. Kể từ đó, mạng xã hội này đã phát triển mạnh mẽ và hiện thu hút hơn 900 triệu người sử dụng. Họ dùng Facebook để đăng tải hình ảnh và thông tin về cuộc sống của mình và thường kết nối lại với những bạn bè hay thành viên gia đình mà họ đã mất liên lạc lâu nay.
------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Phép Màu Hết Bao Nhiêu
Khi nghe cha mẹ bàn về bệnh tình của cậu em trai Andrew, những gì cô bé Tess thông minh lên 8 tuổi biết được là em mình mắc bênh rất nặng và gia đình đã cạn kiệt tiền. Gia đình họ sắp chuyển đến một khu chung cư vào tháng tới vì cha không có đủ để trả tiền nhà và tiền thuốc của bác sĩ. Cần có một ca phẫu thuật với chi phí rất cao mới có thể cứu được em trai nhưng ngặt nổi không có ai cho gia đình em vay mượn. Em nghe cha tuyệt vọng nói nhỏ với mẹ đang đầm đìa nước mắt: “Chỉ có phép nhiệm mầu mới có thể cứu được thằng bé thôi!”.
Tess về phòng mình và lôi ra từ chỗ giấu một hủ đựng kẹo bằng thủy tinh với số tiền em đã dành dụm bấy lâu nay. Cô bé đổ hết số tiền lẻ ra sàn đếm kỹ lưỡng, đến những 3 lần. Phải thật chinh xác về tổng số tiền. Không thể nhầm lẫn. Rồi cẩn thận bỏ số tiền xu vào hủ đậy nắp lại, em vội lẻn ra cửa sau và chạy thẳng đến một tiệm thuốc tây tên Rexall cách 6 khu nhà.
Em đứng trước cửa hiệu một cách kiên nhẫn để gợi sự chú ý của người dược sĩ, nhưng ông ta mãi chuyện với một người khác không buồn để ý đến một con bé 8 tuổi. Đoạn em dùng chân gõ lên sàn nhà. Không tác dụng. Em hắng giọng để tạo ra tiếng động khó chịu nhất nhưng vô ích. Cuối cùng em lấy một đồng 25 xu gõ mạnh lên tủ kính và người dược sĩ cất giọng một cách khó chịu: “Cháu muốn gì hả cháu bé? Ông ta nói ngay không đợi Tess trả lời. “Cháu không thấy ta đang nói chuyện với người anh từ Chicago xa cách bao nhiêu năm trời hay sao?”. Tess cũng trả lời với vẻ bực bội:
“Cháu cũng muốn nói chuyện với chú về em trai của cháu đây. Em ấy đang ốm, ốm nặng lắm, và cháu đến đây để mua … phép mầu nhiệm”.
“Cháu muốn mua gì?”. Người dược sĩ tròn mắt với vẻ không hiểu.
Em cháu tên là Andrew và em ấy chịu đựng cái gì đó đau lắm ở trong đầu. Cha cháu nói rằng chỉ có phép nhiệm mầu mới cứu được em. Vậy phép nhiệm mầu bán với giá bao nhiêu hả bác?”.
“Ở đây không bán thứ đó cháu bé ạ. Chú rất tiếc không giúp cháu được.” – giọng người dược sĩ dịu lại.
“Nhưng thưa chú, cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ cháu sẽ đi mượn thêm. Xin cho cháu biết giá bao nhiêu ạ.” – giọng Tess van nài.
Người anh của ông dược sĩ ăn mặc rất đẹp. Ông nghiêng người xuống hỏi Tess: “Thế em cháu cần phép nhiệm mầu gì?” Tess trả lời như muốn khóc. ”Cháu không biết ạ,” Cháu chỉ biết em ốm nặng. Mẹ nói em cần được mổ. Nhưng bố không đủ tiền trả, vì vậy cháu muốn dùng tiền của cháu.”
Ông ta hỏi, “Thế cháu có bao nhiêu?”
” 1 đô và 11 xu. Đó là những gì cháu có, nhưng cháu có thể mượn thêm được mà.” Tess nói to.
“Ồ, thật trùng hợp”, người đàn ông mỉm cười “1 đô và 11 xu – một số tiền chính xác để mua phép màu nhiệm cho em cháu”. Sau đó, ông cầm số tiền và nắm chặt bàn tay cô bé nói: “Cháu hãy dẫn ta dến nhà cháu. Ta muốn gặp em cháu và cha mẹ cháu. Để xem ta có phép màu mà cháu cần không nhé!”.
Người đàn ông ấy chính là Carlton Armstrong, một bác sĩ chuyên về giải phẫu thần kinh. Cuộc phẫu thuật đã rất thành công mà không hề tốn kém bất cứ chi phí nào. Em trai Andrew hồi phục nhanh và sống khoẻ mạnh. Cha mẹ Tess vui hơn lúc nào hết về chuỗi sự việc đưa đẩy đến. Mẹ em thì thầm: ” Bác sĩ giải phẫu ấy, thật sự là một phép màu. Mẹ không biết mình phải trả bao nhiêu tiền? “.
Tess mỉm cười. Cô bé biết chính xác số tiền đó…1 đô và 11 xu… cộng thêm niềm tin chân thành của một đứa trẻ.
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
-----------------------------------------------------------------------------------
=================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét