MỤC LỤC

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

Biên niên sử CÁC NỀN VĂN MINH






I. AI CẬP 

1.1 Ai Cập cổ đại

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Văn minh Ai Cập)
Bước tới: menu, tìm kiếm

Tượng nhân sư, phía sau là kim tự tháp Giza

Ramesses II (1279 - 1213 TCN) là là một trong những vị pharaon vĩ đại nhất của Ai Cập cổ đại.

Hình quạt và mái chèo

Map of ancient Egypt, showing major cities and sites of the Dynastic period (c. 3150 BC to 30 BC)
Ai Cập cổ đại, hay nền văn minh sông Nin, gắn liền với cư dân sống bên hai bờ sông Nin tại Ai Cập. Dòng sông Nin dài khoảng 6500 km, có bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải, đã tạo ra nơi sản sinh ra một trong các nền văn minh sớm nhất thế giới. Phần hạ lưu sông Nin rộng lớn, giống như hình tam giác dài 700 km, hai bên bờ sông rộng từ 10 dến 50 km tạo thành một vùng sinh thái ngập nước và bán ngập nước - một đồng bằng phì nhiêu với động thực vật đa dạng và đông đúc. Hàng năm từ tháng 6 đến tháng 9, nước lũ sông Nin dâng lên làm tràn ngập cả khu đồng bằng rộng lớn và bồi đắp một lượng phù sa khổng lồ, màu mỡ. Các loại thực vật chủ yếu như: đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen,… sinh sôi nảy nở quanh năm. Ai Cập cũng có một quần thể động vật đa dạng và phong phú, mang đặc điểm đồng bằng-sa mạc như voi, hươu cao cổ, sư tử, trâu, , cá sấu, các loài , chim,…
Tất cả các điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã góp phần hình thành nền văn minh Ai Cập sớm nhất. Các ngành nghề như đánh bắt cá, nông nghiệp, thủ công nghiệpthương nghiệp đều phát triển ngay từ 3.000 năm trước Công nguyên. Đặc biệt, các di sản kiến trúc đồ sộ và đạt đến một trình độ vươn lên tầm kỳ quan của thế giới như: các kim tự tháp, các kiệt tác về hội họa, điêu khắc và nghệ thuật ướp xác,…
Theo cách phân định thời gian của Manetho (thế kỷ 3 TCN) thì lịch sử Ai Cập cổ đại được chia ra thành Cổ, Trung và Tân Vương quốc với 30 vương triều kéo dài khoảng từ cuối thiên niên kỷ thứ 4 trước Công nguyên đến năm 332 trước Công nguyên. Vua của toàn cõi Ai Cập thường có các vua chư hầu dưới quyền, nên các tài liệu tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha dùng danh từ Cổ, Trung và Tân Đế quốc thay vì Vương quốc. Danh từ pharaon bắt đầu được các vua Ai Cập cổ dùng từ vương triều thứ 12 trở đi. Pharaon có nghĩa là ngôi nhà lớn ám chỉ cung vua. Vẫn còn nhiều nghiên cứu về các vương triều Ai Cập đang được tiếp tục và có thể các vương triều này sẽ còn thay đổi, bởi vì ngày nay các công tác khảo cổ vẫn tiếp tục phát hiện thêm nhiều dữ liệu, chứng cứ khác nhau.

Mục lục

Lịch sử qua các thời kì

Bài này nằm trong
Lịch sử Ai Cập.
Ai Cập cổ đại
Ai Cập thuộc Ba Tư
Ai Cập thuộc Hy Lạp
Ai Cập thuộc La Mã
Ai Cập thuộc Ả Rập
Nhà Tulun
Nhà Ikhshid
Nhà Fatima
Nhà Ayyub
Nhà Mamluk
Ai Cập thuộc Ottoman
Nhà Muhammad Ali
Ai Cập hiện đại
Người Ai Cập

Thời kỳ Tiền triều đại (13.000 TCN - 3.200 TCN)

  • 13.000 TCN: Dân miền nam Ai Cập đã bắt đầu trồng lúa mạch.
  • 7.000 TCN: Dân cư đồng bằng sông Nin đã biết canh tác.
  • Khoảng 5500 TCN, các bộ lạc nhỏ sống trong thung lũng sông Nile đã phát triển thành một loạt các nền văn hóa thể hiện qua việc làm chủ nông nghiệp và chăn nuôi, và được nhận biết bằng gốm và các vật dụng cá nhân, chẳng hạn như lược, vòng tay, và hạt. Lớn nhất trong số những nền văn hóa đầu tiên ở Ai-cập, là văn hóa Badari, được biết đến với đồ gốm sứ chất lượng cao của nó, công cụ bằng đá, và sử dụng đồng.[1]
Ở miền Bắc Ai Cập, văn hóa Badari được theo sau bởi các nền văn hóa AmratianGerzean,[2] đã mang đến một số cải tiến kĩ thuật. Vào thời kì Gerzian, đã xuất hiện những bằng chứng đầu tiên về sự tiếp xúc với Canaan và bờ biển Byblos.[3]
  • 5.000 TCN:Có xứ Ombos, kinh đô là Ballas ở miền nam Ai Cập (cũng gọi là Thượng Ai Cập). Miền bắc Ai Cập (Hạ Ai Cập) có xứ Balamun, kinh đô là Behedet.
  • 4.500 TCN: Người Ai Cập đã biết dùng dương lịch mỗi năm có 365 ngày. Truyền thuyết cho rằng người đặt ra lịch đó là Thoth. Thoth cũng được cho là người đã đặt ra mẫu tự Ai Cập, toán họcthiên văn học[cần dẫn nguồn]. Người Ai Cập tôn ông là thần của thời gian.
  • 4.000 TCN: Xứ Ombos chiếm xứ Balamun.
  • 3.900 TCN: Xứ Ombos bị chia đôi: xứ Nekhein ở phía bắc và xứ Buto ở phía nam.
  • 3.700 TCN: Người miền bắc Ai Cập bắt đầu biết dùng kim loại.
  • 3.600 TCN: Xứ Nekhein ở miền bắc chiếm được xứ Buto ở miền nam. Họ định đô ở Heliopolis (Nhật Thành).
  • 3.500 TCN: Ai Cập lại chia đôi: Nekhein giữ miền bắc, Buto độc lập ở miền nam.
  • 3.300 TCN: Người phương đông tràn sang chiếm xứ Nekhein.
  • 3.250 TCN: Vua xứ Buto là Scorpion II thắng được vua của Nekhein.

Thời kỳ Sơ triều đại (3.100 TCN - 3.000 TCN)

  • 3.100 TCN: Con của vua Scorpion II là Menes (hay Horus Narmer) đánh đuổi được người phương đông, thống nhất Nekhein và Buto. Menes lập một triều đại mới, tức là vương triều thứ nhất, trong vương phổ của Manetho. Menes cũng được coi là người khai sinh ra nước Ai Cập.
  • Vương triều thứ nhất: Menes xây dựng thành phố Memphis (Bạch Thành) lớn nhất thế giới thời đó. Ông đóng đô ở thành This. Vương triều thứ nhất có 7-9 đời vua và truyền được khoảng 300 năm. Các vua thời này thường đánh đông dẹp bắc. Menes có đánh Libya. Djer đã chiếm đất Sudan đến ghềnh thứ nhì của sông Nin. DenSemerkhet đánh bán đảo Sinai.
Thời này các sử gia còn tranh luận nhiều về cách định năm. Phần đông xếp cuộc thống nhất Ai Cập của Menes vào năm 3100 TCN. Có người xếp trễ đến năm 2900 TCN. Tài liệu xưa của Julius Africanus xếp sớm đến năm 5664 TCN.

Thời kỳ Cổ vương quốc (2.815 TCN - 2.400 TCN)

Những Tiến bộ lớn trong kiến trúc, nghệ thuật, và công nghệ đã được xuất hiện vào thời kì Cổ vương quốc, thúc đẩy bởi năng suất nông nghiệp tăng có thể do một chính quyền trung ương phát triển tốt.[4] Một số thành tựu đỉnh cao của Ai Cập cổ đại, kim tự tháp Giza và tượng Nhân sư vĩ đại, đã được xây dựng trong thời Cổ vương quốc. Dưới sự chỉ đạo của tể tướng, các quan chức nhà nước thu thuế, phối hợp các dự án thủy lợi để nâng cao năng suất cây trồng, huy động nông dân làm việc trong các dự án xây dựng, và thiết lập một hệ thống tư pháp để duy trì hòa bình và trật tự.[5]

Khafre Enthroned
Cùng với tầm quan trọng ngày càng tăng của một chính quyền trung ương, đã phát sinh một tầng lớp mới bao gồm những quan kí lục có học thức và các quan chức mà được ban phát đất đai bởi của các pharaoh đổi lại cho sự phục vụ của họ.Các Pharaoh cũng thực hiện ban cấp đất đai cho các giáo phái và các đền thờ địa phương để đảm bảo rằng họ có nguồn lực để thờ cúng các vị vua sau khi ông ta qua đời.

Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất (2.400 TCN - 2.046 TCN)

Sau khi chính quyền trung ương của Ai Cập sụp đổ vào cuối thời Cổ Vương quốc, chính quyền không còn có thể hỗ trợ hay giữ được sự ổn định cho nền kinh tế của đất nước. Thống đốc các vùng không còn có thể dựa vào nhà vua để được giúp đỡ trong thời gian khủng hoảng này, và tình trạng thiếu lương thực cùng tranh chấp chính trị leo thang gây ra nạn đói và các cuộc nội chiến quy ​​mô nhỏ. Tuy nhiên, bất chấp những vấn đề khó khăn, các quan chức địa phương, do không cống nạp cho các pharaoh, sử dụng sự độc lập mới có được để thiết lập một nền văn hóa phát triển mạnh ở các tỉnh. Một khi kiểm soát các nguồn tài nguyên của riêng mình, các tỉnh đã trở nên giàu có hơn về kinh tế, một thực tế chứng minh bằng sự chôn cất lớn hơn và tốt hơn trong tất cả các tầng lớp xã hội[6]
Không bị ràng buộc bởi lòng trung thành của họ với pharaoh, các nhà cầm quyền địa phương đã bắt đầu cạnh tranh với nhau để kiểm soát lãnh thổ và quyền lực chính trị. Khoảng năm 2160 trước Công nguyên, các vị vua ở Herakleopolis đã kiểm soát Hạ Ai Cập, trong khi một gia tộc đối thủ có căn cứ tại Thebes, gia đình Intef, nắm quyền kiểm soát của Thượng Ai Cập. Vì nhà Intefs mạnh hơn và bắt đầu mở rộng sự kiểm soát của họ về phía bắc, một cuộc đụng độ giữa hai triều đại đối thủ đã không thể tránh khỏi. Khoảng năm 2055 trước Công nguyên, phe Theban dưới quyền Nebhepetre Mentuhotep II cuối cùng đã đánh bại các vị vua Herakleopolis, thống nhất hai vùng đất và mở ra một thời kỳ phục hưng kinh tế và văn hóa được gọi là thời Trung vương quốc.[7]

Thời kỳ Trung vương quốc (2.046 TCN - 1.750 TCN)


Amenemhat III, the last great ruler of the Middle Kingdom
Các pharaoh thời Trung vương quốc đã phục hồi sự thịnh vượng của đất nước và sự ổn định, qua đó kích thích sự hồi sinh của nghệ thuật, văn học, và các dự án xây dựng hoành tráng[8] Mentuhotep II và các vị vua kế tục của vương triều thứ 11 cai trị từ Thebes, nhưng khi viên tể tướng Amenemhat I lên ngôi mở đầu cho triều đại thứ 12 khoảng năm 1985 trước Công nguyên, ông ta đã chuyển kinh đô của quốc gia tới thành phố Itjtawy nằm trong ốc đảo Faiyum.[9] Từ Itjtawy, các pharaoh triều đại thứ 12 đã tiến hành một chương trình cải tạo đất đai và chương trình thủy lợi để tăng sản lượng nông nghiệp trong khu vực. Hơn nữa, quân đội còn tiến hành các chiến dịch quân sự tái chiếm lại vùng lãnh thổ Nubia vốn giàu các mỏ đá và mỏ vàng, trong khi nhân dân lao động xây dựng một công trình phòng thủ ở phía đông vùng đồng bằng châu thổ, được gọi là "Trường thành của nhà vua", để bảo vệ chống lại các cuộc tấn công từ nước ngoài.[10]
Vị vua vĩ đại cuối cùng của thời kỳ Trung vương quốc, Amenemhat III, đã cho phép những người châu Á định cư trong khu vực đồng bằng để cung cấp một lực lượng lao động đủ để cho việc khai thác mỏ và đặc biệt là các công trình xây dựng của ông.

Thời kỳ chuyển tiếp thứ nhì (1.700 TCN - 1.590 TCN)

Khoảng năm 1785 trước Công nguyên, khi mà sức mạnh của các vị vua thời Trung vương quốc suy yếu, những dân định cư châu Á sống ở thị trấn Avaris ở miền đông đồng bằng châu thổ nắm quyền kiểm soát khu vực và buộc chính quyền trung ương phải rút lui về Thebes, nơi các vị vua bị coi là một chư hầu và đặc biệt là phải cống nạp[11] Người Hyksos ("Các vị vua nước ngoài") bắt chước mô hình của chính phủ Ai Cập và miêu tả mình là pharaoh, do đó tích hợp các yếu tố Ai Cập vào nền văn hóa thời đại đồ đồng của họ.[12]

The maximum territorial extent of Ancient Egypt (15th century BC)
Sau khi rút lui về phía nam, các vị vua Thebes thấy mình bị mắc kẹt giữa người Hyksos ở phía bắc và đồng minh Nubia của họ, người Kushite. Sau nhiều năm không động tĩnh, Thebes đã tập hợp đủ sức mạnh để có thể thách thức người Hyksos trong một cuộc chiến sau đó kéo dài hơn 30 năm, cho đến năm 1555 trước Công nguyên[11] Các vị pharaoh Tao II SeqenenreKamose cuối cùng đã có thể đánh bại người Nubia, nhưng phải tới khi người kế vị của Kamose là Ahmose I lên ngôi, họ mới thành công trong việc tiến hành một loạt các chiến dịch vĩnh viễn loại trừ sự hiện diện của dân Hyksos ở Ai Cập. Vào thời kỳ Tân Vương quốc sau đó, quân đội đã trở thành một ưu tiên trung tâm cho các pharaoh trong việc tìm cách mở rộng biên giới của Ai Cập và bảo đảm sự thống trị của họ ở vùng Cận Đông [13]

Thời kỳ Tân vương quốc (1.590 TCN - 1.078 TCN)

1590 - 1310 trước Công nguyên

Tiếp theo đó, những người kế vị ông là Thutmosis I, Thutmosis II, nữ hoàng HatshepsutThutmosis III ngự trên một đế quốc Ai Cập mở rộng đến Palestine, Israel, Liban và một phần của Syria. Sự chinh phạt của triều đại đưa Ai Cập đến những cuộc chiến với đế quốc Mitanni ở Syria và đế quốc HittiteThổ Nhĩ Kỳ. Vua Tutankhamun nổi tiếng với câu chuyện "lời nguyền của các pharaon" (nhiều người vào mộ ông bị chết một cách đáng ngờ) và những di sản quý báu (tìm được trong mộ của ông) được trưng bày nhiều nơi trên thế giới từ thế kỷ 20.

1.310 - 1.078 trước Công nguyên

  • Vương triều thứ 19: Vizia Pramesse trở thành vua Ramesses I của vương triều thứ 19, còn gọi là “nhà Tiền Ramesses”. Những người kế vị là Seti I, Ramesses II tiến đánh Libya, Syria, Sudan, giao chiến với đế quốc Hittite và không ngừng xây dựng các công trình đồ sộ, điển hình như các ngôi đền từ Abu Simbel đến Karnak. Năm 1275 TCN Ai Cập giao chiến với đế quốc Hittite và liên quân 20 dân tộc tại Kadesh ở Cận Đông. Tài liệu. Tài liệu Ai Cập cho là ông thắng trận nhưng ông giảng hòa với Hittite, nhường vùng Kadesh cho Hittite và cưới công chúa xứ này. Merneptah cũng khá tài giỏi, đánh đuổi được một liên quân xâm lược gồm người Libya, Licy, Sardes, Tyrsene và Achean đến từ phương Tây.
  • Vương triều thứ 19 bị 1 người Syria tên là Bay soán ngôi. Được 5 năm, Setnakhte giết được bạo chúa Bay, ông lập ra vương triều thứ 20 còn được gọi là nhà “Nhà Hậu Ramesses”. Vương triều này thường phải đối chọi với các tấn công của Hải Nhân, và kết thúc sau khi vua Ramesses XI qua đời.

Thời kỳ chuyển tiếp thứ ba (1.078 TCN - 663 TCN)

  • Vương triều thứ 21 do Smendes I lập lên Vương triều thứ 21 ở thành phố Tanis. Lúc ấy dòng dõi của quan trấn thủ Herihor (hay thầy tế Amun) cai trị miền nam, đóng đô ở Thebes. Mặc dù họ nói tiếng thần phục Tanis, nhưng thực chất họ là một nước độc lập. Trong thời gian này, người Lybia đã được định cư tại khu vực đồng bằng châu thổ phía tây, và thủ lĩnh của những người định cư bắt đầu gia tăng quyền tự chủ của họ.
  • Vương triều thứ 22 do Shoshenq I, một người Libya, lập ra. Ông thống nhất Ai Cập và cưới một công chúa Ai Cập để được dân bản xứ công nhận là chính thống. Sau khi vua Solomon của Do Thái mất, Shoshenq (được cho là Shishaq trong Kinh Thánh) đánh Do Thái vào khoảng 920 TCN và vào cướp kinh đô Jerusalem. Shoshenq cũng đã giành được quyền kiểm soát miền nam Ai Cập bằng cách đặt các thành viên gia đình của mình vào các vị trí thầy tế quan trọng. Sự cai trị của người Libya đã bắt đầu bị xói mòn bởi một triều đại đối thủ ở vùng đồng bằng , nổi lên ở Leontopolis và bị người Kushite đe dọa từ phía nam.
  • Vương triều thứ 23 do Takelot II lập ở miền trung và nam Ai Cập để chống với vương triều thứ 22 (khoảng 840 TCN). Một số sử gia lại cho người lập vương triều thứ 23 là Pedubast I, người nổi lên ở miền nam Ai Cập khoảng 830 TCN để chống với cả Takelot II lẫn vương triều thứ 22. Đến khoảng 760 TCN thì Ai Cập đã bị vỡ ra nhiều nước nhỏ đánh nhau. Năm 730, vua Nubia (nay ở Sudan) là Piye vào chiếm Ai Cập. Trong đài chiến thắng của Piye còn đọc được tên 21 nước trên đất Ai Cập.
  • Khi Piye rút về, Tefnakht nổi lên lập nhà Sais, tức vương triều thứ 24, và diệt hai vương triều 22 và 23, thống nhất Ai Cập.
  • Em trai Piye là Shabaka nối ngôi anh khoảng 716 TCN, sang đánh đuổi nhà Sais, dời đô về Thebes, tức là vương triều thứ 25. Lúc bấy giờ, đế quốc AssyriaIraq đang bành trướng rất mạnh. Năm 701, quân của vua Assyria là Sennacherib phá tan quân Ai Cập và liên quân 29 nước ở Altaqah. Shabaka chết trong trận này. Con cháu của vương triều này mấy mươi năm sau không được kể là vua Ai Cập nữa, nhưng tiếp tục cai trị Nubia thêm 350 năm.

25th Dynasty

Thời hậu nguyên (663 TCN - 332 TCN)

  • Năm 672, Assyria vào đô hộ Ai Cập, và lập hậu duệ của nhà Sais là Necho I lên ngôi. Necho bắt đầu nhà “Hậu Sais” tức vương triều thứ 26. Lợi dụng lúc Assyria suy yếu, Necho I liên kết với các cường quốc trong vùng và lấy lại chủ quyền, nhưng bị Tantamani của Vương triều thứ 25 bắc phạt giết chết. Assyria trở lại đánh bại Tantamani và tàn phá kinh đô Thebes.
Sau đó, con trai của Necho I là Psammetichus I khôi phục được đất nước. Trong thập niên 660 và 650 TCN, Psammetichus I liên kết với Lydia ở Thổ Nhĩ Kỳ để chống với Assyria. Nhưng đến 615-605 TCN, khi Assyria suy yếu, bị liên quân Babylon và Media vây đánh, Psammetichus I và con là Necho II lại đem quân đi cứu. Nhưng các pharaon bị thất bại, Đế quốc Assyria bị diệt. Khoảng năm 586 TCN, pharaon Apries lên nối ngôi. Ông ta nỗ lực đẩy lùi cuộc chinh phạt PalestineSyria của đế quốc Babylon, nhưng không đem lại kết quả gì. Khoảng năm 580 TCN, Hoàng đế Babylon là Nebuchadnezzar II đánh tan tác Quân đội Ai Cập, và củng cố quyền thống trị xứ Palestine. Về phía Tây, pharaon Apries đánh thuộc địa Cyrene của người Hy Lạp, nhưng bại trận rút quân, khoảng năm 570 TCN. Ahmose làm binh biến, trở thành pharaon Amasis II, khoảng năm 586 TCN. Vào năm 567 TCN, cựu vương Apries cầu cứu Hoàng đế Nebuchadnezzar II, nhưng rồi pharaon Amasis đã đập tan tác quân xâm lược Babylon và giết được cả Apries.[14][15] Ông được xem là một vị vua - chiến binh xuất sắc, là bậc minh quân nhìn xa trông rộng và tài năng. Dưới triều đại của ông, nước Ai Cập phát triển thịnh vượng và đạt nhiều thành tựu văn hóa.[16] Ông cũng phát triển thương mại với người Hy Lạp.[15]
  • Từ năm 553 cho đến năm 550 TCN, có Hoàng đế Cyrus Đại đế dấy lên lập đế quốc Ba Tư.[17] Được xem là vị Đại Danh tướng (Great Captain) đầu tiên trong chính sử, ông ta chinh phạt được Đế quốc Media, nhanh chóng mở mang bờ cõi.[18][19] Lúc bấy giờ, Ai Cập là một trong bốn đế quốc lớn ở vùng Cận Đông.[20] Sự phát triển lớn mạnh của Đế quốc Ba Tư làm vua nước Lydia là Kroisos lo sợ và ký Hiệp ước với pharaon Amasis II (549 TCN).[21] Pharaon phái một đạo quân hùng mạnh đến đánh quân Ba Tư. Trong trận Thymbra, Bộ binh Ai Cập vẫn đứng vững trong liên quân Lydia, Hoàng đế Cyrus Đại Đế bèn thỏa thuận riêng với họ, để họ về nước trong vinh quang.[14] Quân Lydia bị đánh tan tác,[22] rồi lần lượt cả hai Đế quốc Lydia và Babylon đều rơi vào tay Hoàng đế Cyrus Đại Đế.[23] Theo Herodotos, vào năm 530 TCN, ông ta tử trận khi đánh Nữ vương Tomyris người Massagetae, truyền ngôi Hoàng đế cho Hoàng thái tử Cambyses.[24]
Hoàng đế Cambyses II chuẩn bị đánh Ai Cập, và Triều đình Ai Cập cũng chuẩn bị cho chiến tranh.[25] Vào năm 526 TCN, giữa lúc quan hệ Ai Cập - Ba Tư trở nên cực kỳ căng thẳng, pharaon Amasis II đột ngột qua đời. Pharaon Psammetichus III lên nối ngôi, bị quân Ba Tư đánh bại và bị bắt giải về Ba Tư, chỉ sau 6 tháng trị vì.[26] Với công cuộc chinh phạt Ai Cập, Hoàng đế Cambyses II đã hoàn thành tham vọng của vua cha Cyrus Đại Đế, và thể hiện mình là một vị thống soái tài năng.[24] Ông ta cho hành quyết nhiều tù binh, nhưng tha tội cho pharaon Psammetichus III và giam cầm ông trong cung đình. Nhà Achaemenes, tuy không đóng đô trên đất Ai Cập, nhưng được coi là vương triều thứ 27 của Ai Cập. Ngân khố Hoàng gia của các vị pharaon Necho, Amasis II và Psammetichus III đều bị mang về Đế quốc Ba Tư.[27]
Trong cuộc chiến tranh Hy Lạp-Ba Tư vào thế kỷ V TCN, quân Ba Tư đã đập tan tác quân Athena trong một trận đánh tại Ai Cập.[28] Trong thời Ba Tư thuộc, người Ai Cập nổi lên độc lập được hơn 60 năm, thành được 3 vương triều chót của danh sách Manetho:
Từ năm 404 TCN cho đến năm 358 TCN, Hoàng đế Ba Tư là Artaxerxes II hai lần đánh Ai Cập, nhưng pharaon Nectanebo II chống trả mãnh liệt đến quân Ba Tư phải lui. Hoàng đế Artaxerxes III lên thay, đánh Ai Cập vào năm 351 TCN nhưng bại trận. Đến năm 343 TCN, ông ta lại xua quân đánh Ai Cập, đánh thắng pharaon Nectanebo II trong trận Pelusium và tiến hành cướp phá tàn bạo.[29]

Triều đại Ptolemaios

Bài chi tiết: Ai Cập thuộc Hy Lạp
Năm 332 TCN, vua MacedoniaAlexandros Đại đế tiêu diệt được đế quốc Ba Tư, rồi chiếm luôn Ai Cập. Đất nước của các pharaon bước sang thời kì Ai Cập thuộc Hy Lạp. Ông tiếp đó cho xây dựng thành Alexandria mà nhà Ptolemaios kế tục đã chọn nó là kinh đô của Ai Cập. Thành phố này đã cho thấy sức mạnh và uy thế dưới sự cai trị của người Hy Lạp , và trở thành một trung tâm của học tập và văn hóa, với Thư viện Alexandria nổi tiếng [30]

Thời kì thuộc La Mã


The Fayum mummy portraits epitomize the meeting of Egyptian and Roman cultures.
Ai Cập trở thành một tỉnh của Đế chế La Mã vào năm 30 trước Công nguyên, sau thất bại của Marcus Antonius và Nữ hoàng Cleopatra VII trước Octavian (sau này là Hoàng đế Augustus) trong trận Actium. Người La Mã phụ thuộc chủ yếu vào các chuyến hàng ngũ cốc từ Ai Cập, và quân đội La Mã, thuộc thẩm quyền của thái thú được bổ nhiệm bởi Hoàng đế, dẹp yên cuộc nổi loạn, thi hành nghiêm túc việc thu thuế nặng, và ngăn chặn cuộc tấn công của bọn cướp, mà đã trở thành một vấn đề nổi tiếng trong giai đoạn này [31] Alexandria đã trở thành một trung tâm ngày càng quan trọng trên tuyến đường thương mại với phương đông, vì những của cải xa hoa kỳ lạ có nhu cầu cao tại Rome.[32]
Mặc dù người La Mã đã có một thái độ thù địch hơn so với người Hy Lạp đối với người Ai Cập, một số truyền thống như ướp xác và thờ cúng các vị thần truyền thống vẫn tiếp tục.[33] Nghệ thuật vẽ chân dung xác ướp phát triển rực rỡ, và một số của các hoàng đế La Mã đã tự mô tả mình như pharaoh, mặc dù không đến mức độ như nhà Ptolemaios trước đây.

Thành tựu văn hóa Ai Cập cổ

Nghệ thuật ướp xác Ai Cập cổ

Bài chi tiết: Xác ướp

Bức tranh miêu tả thuật ướp xác
Thuật ướp xác của người Ai Cập ra đời từ năm 2700 TCN. và kéo dài đến tận thế kỷ thứ 5. Quan niệm của người Ai Cập cổ về sự vĩnh hằng ở thế giới của các thần linh sau khi chết nên việc ướp xác cũng là đức tin cho sự trường tồn của vương quốc Ai Cập.
Nguyên tắc ướp xác của Ai Cập cổ đại dựa trên việc làm mất nước trong cơ thể người chết và lấy đi các bộ phận dễ phân hủy như nội tạng và bộ não. Nghệ thuật lấy não người chết thật tài tình, nhiều năm làm các chuyên gia giải phẫu lúng túng về phương pháp bảo vệ hộp sọ của người chết trong khi não được lấy ra một cách hoàn hảo. Bước tiếp theo, xác ướp được để trong natron khô khoảng 70 ngày để thanh trùng. Cuối cùng là nhồi cỏ khô, thơm vào phần rỗng của nội tạng, xoa dầu thơm và quấn vải lên thi thể một cách cẩn thận và chu đáo. Các ngón tay của xác ướp được lồng bằng các ống vàng. Não và nội tạng khi lấy ra khỏi xác ướp được cất giữ ở 4 chiếc bình.
Nghi thức chôn cất xác ướp cũng thần bí và ngày nay các nhà khảo cổ học vẫn khám phá thêm các thông tin thú vị bên các khu khai quật mới.

Chữ viết Ai Cập cổ


Chữ tượng hình trên một bức vẽ
Đã lâu, các nhà khảo cổ học tìm thấy những ký hiệu tượng hình được khắc trên các bức tranh trong các di tích tìm thấy khi tiến hành khai quật Nekhen (Hierakonpolis theo người Hy Lạp cổ và Kom el-Ahmar trong tiếng Ả Rập ngày nay), vào năm 1894. Tuổi của những chữ tượng hình này có niên đại vào khoảng 3200 TCN. Tuy nhiên, gần đây, các nhà khảo cổ học lại tìm thấy những ký hiệu trên đồ gốm Gerzean, 4000 TCN, có sự tương đồng với chữ viết cổ Ai Cập.
Các nhà Ai Cập học xếp hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ vào thể loại chữ tượng hình là lối viết sớm của hệ thống chữ viết của thế giới. Những thầy tu thảo ra những chữ tượng hình Ai Cập cổ từ triều đại đầu tiên (2925 - 2775 TCN).
Chữ tượng hình Ai Cập cổ không còn được sử dụng từ thế kỷ thứ 4. Đến thế kỷ 15, người ta bắt đầu giải mã hệ thống chữ viết của Ai Cập cổ. Đến thế kỷ 19, nhà khảo cổ người Pháp là Champollion đã giải mã được văn tự Ai Cập.
Cuối thế kỷ 20, người ta đã truy ra là mẫu tự Phoenix (tổ tiên của người Li Ban) đã được đặt ra bắt chước theo văn tự Ai Cập. Sau đó các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và La-Tinh đã dựa theo mẫu tự Phoenix để thành lập chữ viết của mình. Ngày nay, các xứ dùng mẫu tự La Tinh, trong đó có Việt Nam, Pháp, Anh; các xứ dùng mẫu tự Hi Lạp, trong đó có Nga đều thừa hưởng di sản của chữ viết Ai Cập !

Văn học - nghệ thuật Ai Cập cổ


Một cuốn sách của người chết viết trên giấy papyrus

Bức tranh tường vẽ hoàng hậu Nefertari
Tác phẩm văn học cổ xưa nhất của Ai Cập có lẽ là các tác phẩm sách giấy papyrus (chỉ thảo) Ipuwer, có niên đại 1800 TCN. Hiện nay bộ sưu tập về các tác phẩm cổ đại Ai cập còn có:
  • Sách giấy papyrus Westcar (1600 TCN)
  • Sách giấy papyrus Tulli (1400 TCN)
  • Sách giấy papyrus Ebers (1300 TCN)
  • Sách giấy papyrus Harris I (1180 TCN)
  • Chuyện của Wenamun (1000 TCN)
Nghệ thuật hội họa Ai Cập cổ đáng để chúng ta kinh ngạc bởi những tranh vẽ trên tường trong các khu hầm mộ của các pharaon, trên các chất liệu gốm cổ,… Các bức tranh mô tả cảnh sinh hoạt và sản xuất cũng như tín ngưỡng tập tục của các cư dân và vua chúa Ai Cập. Các tác phẩm hội họa và các hoa văn trên gốm và đất nung đã cung cấp cho các nhà Ai Cập học các tư liệu phong phú và sinh động.

Một bình gốm có hoa văn ở bảo tàng Louvre
Việc tồn tại cho đến ngày nay các tác phẩm hội họa Ai Cập cổ có thể do khí hậu khô của sa mạc và điều kiện thiếu ánh sáng của các hầm mộ. Những bức vẽ của Ai Cập cổ miêu tả về một thế giới vui tươi cho những người chết ở cõi vĩnh hằng. Nhiều bức họa vẽ cảnh đi vào cõi âm nhằm che chở người chết đi về với Chúa trời vì người Ai Cập tin rằng sự chết chỉ là sự chuyển chỗ ở sang một thế giới các vị thần và điều này sẽ phù hộ cho những vị pharaÔng và các triều đại đang trị vì nước Ai Cập.
Nghệ thuật gốm cổ Ai Cập cũng rất phong phú và tinh xảo. Người Ai Cập cổ đã khám phá ra chất liệu men gốm khá sớm; trên các bề mặt của gốm cổ Ai Cập có chạm khắc tinh xảo các hình nhỏ mô tả nhiều chủ đề. Đồ gốm thường được chôn theo người chết và để dùng vào các nghi lễ thần bí.
Giấy papyrus là một loại giấy do người Ai Cập cổ sáng chế ra, được làm từ cây papyrus mọc ở châu thổ sông Nin. Công nghệ làm giấy papyrus không được ghi lại và bị thất truyền theo thời gian, tuy vậy, vào năm 1940, các nhà Ai Cập học đã phục hồi được công nghệ này. Người ta đã tìm thấy những tấm giấy có kích thước khá lớn, dài hàng mét. Giấy papyrus được người Ai Cập cổ dùng vào các việc ghi chép lại các cảnh sinh hoạt bao gồm văn học, tôn giáo, lịch sử và các công việc hành chính.

Kiến trúc Ai Cập cổ

Các chữ tượng hình Ai Cập có liên quan đến các công trình kiến trúc

Tháp ở đền Karnak

Đền Luxor ở Đông sông Nin
Hơn 10.000 năm trước đây, châu thổ sông Nin là nơi khởi đầu một nền văn minh sớm của thế giới. Cùng với sự xuất hiện nền văn minh Ai Cập cổ là các công trình xây dựng vĩ đại trên một khu vực tập trung dày đặc. Ai Cập cổ đã để lại và đóng góp cho nhân loại một trong Bảy kỳ quan thế giới cổ đại, đó là Kim tự tháp Gizatượng nhân sư Sphinx khổng lồ.
  • Đặc trưng kiến trúc Ai Cập cổ thể hiện sự khan hiếm vật liệu gỗ, nên người Ai Cập cổ sử dụng vật liệu trong xây dựng chủ yếu là gạch chưa nung, đá các loại. Trong suốt các triều đại Ai Cập cổ, vật liệu đá được dùng hầu . Đôi khi, các vật liệu gạch có được dùng trong các công việc xây dựng lâu đài của các Hoàng đế, pháo đài và một số công trình dân dụng khác như tường bao quanh lâu đài, đền đài và đô thị và các công trình phụ trợ ít quan trọng trong các đền đài. Rất nhiều công trình nhỏ của Ai Cập cổ đã bị phá hủy và cuốn trôi theo những cơn giận giữ bất thường của sông Nin. Tuy nhiên, do điều kiện khí hậu khô, nóng của Ai Cập cũng giúp bảo tồn được khá nhiều các công trình xây bằng gạch chưa nung. Ví dụ, ngày nay còn lại một số ngôi làng như Deir al-Madinah, pháo đài Buhen và Mirgissa. Các công trình bằng đá ở các khu đất cao, không ảnh hưởng bởi lũ lụt của sông Nin nhưng cũng chịu tác động không nhỏ của các cơn bão cát sẵn có ở vùng này.
Điều ấn tượng nhất chính là kỹ thuật xây dựng của người Ai Cập cổ. Những công trình đồ sộ, cao lớn và chính xác theo quan niệm vũ trụ của người Ai Cập cổ đến hôm nay cũng làm cho các nhà khảo cổ học lúng túng và việc liên tục khám phá chúng và có nhiều công trình nghiên cứu mới ra đời thay thế cho các lập luận cũ không còn đứng vững. Cũng cần nhắc đến kiểu kiến trúc đặc trưng của các cổng, cửa theo kiểu của vòm ở triều đại thứ 4; tất cả các lối vào của các công trình lớn được kết cấu bởi các cổng lớn có dầm đỡ.

Thế giới quan - triết học Ai Cập cổ


Thần Mặt trời (thần Rê)
Quan niệm về thế giới huyền bí của người Ai Cập cổ hay quan niệm tôn giáo tín ngưỡng kéo dài trên dưới 3.000 năm về giữa cả hai tôn giáo là đạo Ki-tôđạo Hồi.
  • Thần linh của người Ai Cập cổ, khi sơ khởi được quan niệm là một thế giới hỗn mang của vật chất là nước. Vị thần đầu tiên, thần Ra-Atum, hàng năm xuất hiện như nước lũ của sông Nin ở xứ sở Ai Cập. Thần Ra sinh ra các bọt nước, từ đó biến thành thần Shu (không khí) và Tefnut (hơi nước). Thế giới được tạo ra khi thần Shu và Tefnut sinh ra hai đứa trẻ: Nut (bầu trời) và Geb (mặt đất). Con người được tạo ra khi thần Shu và thần Tefnut sơ ý bị lạc trong hoang mạc đen tối, thần Rê dùng đôi mắt của mình đi tìm họ và trong khi xúc động về sự đoàn tụ, nước mắt sung sướng của thần Rê đã tạo nên loài người. Con trai của thần Geb là Osiris được cử làm vua của Ai Cập cổ đại. Người em trai của Osiris là Seth được xem là kẻ xấu xa trong vũ trụ. Seth đã giết Osiris và tự lên ngôi là vua Ai Cập. Sau khi giết Osiris, Seth thách đấu với con trai của Osiris (Horus) và bị thua, Seth bị đày đến sa mạc và biến thành thần bão cát khủng khiếp. Osiris được ướp xác bởi Anubis và biến thành thần của sự chết. Horus bắt đầu lên ngôi vua và trở thành pharaon.
Còn rất nhiều truyền thuyết xung quanh các triều đại Ai Cập. Nhưng thế giới của người Ai Cập luôn xoay quanh các điều thần bí về con sông Nin và sa mạc, tạo nên một đức tin về các thế lực thần bí, luôn lôi kéo con người phải thần phục các pharaong và các pharaong như một vị thần hiện hữu, thay mặt các vị thần khác có nhiệm vụ trông coi dân Ai Cập và dung hòa các thế lực thiên nhiên khắc nghiệt để đưa đến cho thần dân Ai Cập một cuộc sống yên lành bên cạnh pharaong và dòng sông Nin giàu có và thần bí.
  • Quan niệm về cái chết của người Ai Cập cổ như một sự chuyển tiếp một cuộc sống khác ở thế giới bên kia, thế giới cõi âm. Nghi lễ về cái chết là một sự kiện quan trọng và tỉ mỉ nhằm tiễn đưa người chết về với cõi vĩnh hằng. Người Ai Cập cổ quan niệm con người có cả phần thể xác và phần linh hồn, chính vì vậy, các nghi lễ là thể hiện sự chuẩn bị cho thể xác và linh hồn có được sự hòa hợp khi về cõi âm, họ tin tưởng rằng, nếu thi thể được bảo quản tốt nhất thì linh hồn sẽ tái hòa nhập sau một thời gian nào đó. Điều kiện để linh hồn mau chóng trở lại hòa nhập vào thể xác là xác phải được một người thầy tu lành nghề bảo quản nguyên vẹn cơ thể, khuôn mặt được như lúc còn sống và cơ thể phải được ướp hương thơm. Đầu tiên, cơ thể người chết sau khi đã được lấy đi nội tạng, sẽ được cho vào một quan tài nhỏ bằng sậy vùi vào cát nóng nhằm làm khô xác để cho cơ thể không thể phân hủy sau này, sau đó thì mới mai táng trong hầm mộ.

Chính quyền và kinh tế

Chính sách quản lý và thuế


Bức tranh mô tả cuộc sống lao động thường ngày ở Ai Cập cổ
Nhằm quản lý hiệu quả, người Ai Cập cổ đại đã chia vương quốc thành các vùng, được gọi là nome. Vết tích về các nome có lẽ được bắt đầu từ thời kỳ Tiền triều đại (trước 3100 TCN), khi đó các vùng được tự trị như các tiểu đô thị. Hệ thống cai trị này rất phổ biến dưới nhiều triều đại của các pharaon Ai Cập cổ, vương quốc đã được chia thành 42 nome. Thời kỳ suy yếu, nước Ai Cập cũng được chia thành 22 nome. Trong mỗi vùng này, việc cai trị được trao cho một người đứng đầu, giống như thống đốc của một địa phương cấp tỉnh, với đầy đủ quyền lực cai trị địa phương mình. Địa vị của vị thủ lĩnh được phép truyền đời theo dòng họ, cha truyền con nối, được sự bổ nhiệm của pharaon.
Sự cai trị của Ai Cập cổ đại áp đặt khác nhau về số thuế phải đóng của các cư dân. Người ta chưa rõ từ khi nào người dân Ai Cập phải đóng thuế bằng các hình thức hoặc là sản phẩm, hoặc là lao động. Vị quan điều hành hệ thống thuế thông qua một bộ của bang, vùng. Bộ điều hành thuế có các thông báo hàng ngày về số lượng hiện có trong kho, và dự tính thời gian hết trong tương lai. Các loại thuế phải nộp dựa trên kết quả các ngành nghề thủ công và lợi tức. Các chủ đất phải nộp thuế bằng các sản phẩm thu họach trên đất đai, đầm nước và các ốc đảo của mình. Những thợ săn và người đánh cá phải nộp các khoản thuế trên các sản phẩm từ sông, hồ, đầm lầy và sa mạc. Mỗi thành viên trong các gia đình buộc phải trả thuế bằng sức lao động ở các công trường bằng số lượng vài tuần trên một năm, ví dụ như đào kênh hay làm việc ở các khu khai khoáng. Tuy nhiên, những người giàu có, có thể được phép thuê những người đàn ông nghèo khổ đi đóng thuế lao động cho mình.

Hệ thống pháp luật

Người đứng đầu của hệ thống pháp luật chính thức là các pharaoh, người chịu trách nhiệm thi hành pháp luật, thực thi công lý, duy trì pháp luật và trật tự, một khái niệm được người Ai Cập cổ đại gọi là Ma'at[34] Mặc dù không có bộ luật nào từ thời Ai Cập cổ đại còn tồn tại, thư liệu của tòa án cho thấy luật pháp Ai Cập được dựa trên một cái nhìn chung về ý thức đúng và sai mà nhấn mạnh tới việc đạt được thỏa thuận và giải quyết xung đột thay vì tôn trọng đúng một tập hợp quy chế phức tạp[35] Hội đồng địa phương gồm những người cao tuổi, được biết đến như Kenbet vào thời Tân vương quốc, chịu trách nhiệm về phán quyết trong các phiên tòa liên quan đến các vụ kiện nhỏ và tranh chấp nhỏ.[34] Trường hợp nghiêm trọng hơn liên quan đến giết người, giao dịch đất lớn, và cướp mộ được đưa đến Đại Kenbet, mà tể tướng hoặc pharaoh chủ trì. Nguyên đơn và bị đơn dự kiến ​​sẽ đại diện cho bản thân và phải thề một lời tuyên thệ rằng họ đã nói sự thật.

Nông nghiệp


A tomb relief depicts workers plowing the fields, harvesting the crops, and threshing the grain under the direction of an overseer.
Sự kết hợp các điều kiện địa lý thuận lợi góp phần vào sự thành công của văn hóa Ai Cập cổ đại, quan trọng nhất trong đó là đất đai có độ màu mỡ cao, kết quả từ sự ngập lụt hàng năm của sông Nile. Như vậy, người Ai Cập cổ đại có thể tạo ra một nguồn lương thực dồi dào, cho phép dân cư dành nhiều thời gian và nguồn lực cho các mục đích văn hóa, kĩ thuật, và nghệ thuật. Quản lý đất đai là rất quan trọng trong thời Ai Cập cổ đại bởi vì số thuế được thu dựa trên số lượng đất mà một người sở hữu .[36]
Công việc đồng áng ở Ai Cập phụ thuộc vào chu kỳ của sông Nile. Người Ai Cập ghi nhận ba mùa: Akhet (lũ lụt), Peret (trồng trọt), và Shemu (thu hoạch). Mùa lũ lụt kéo dài từ tháng sáu tới tháng chín, bồi đắp hai bên bờ sông một lớp phù sa lý tưởng, giàu khoáng chất cho việc trồng trọt. Sau khi nước lũ rút, mùa gieo trồng kéo dài từ Tháng Mười tới tháng hai. Nông dân cày và trồng hạt giống trên các cánh đồng, được tưới bằng mương, kênh rạch. Ai Cập vốn có lượng mưa hàng năm ít, do đó, nông dân đã dựa vào sông Nile để tưới nước cho cây trồng của họ[37] Từ tháng ba tới tháng năm, nông dân sử dụng liềm để thu hoạch cây trồng của họ, mà sau đó đã đập với một cái đập lúa một để tách riêng rơm khỏi hạt thóc lúa. Sàng lọc loại bỏ trấu khỏi thóc, các hạt thóc lúa sau đó được nghiền thành bột, ủ làm bia, hoặc được lưu trữ để sử dụng sau này.[38]
Người Ai Cập cổ đại trồng lúa mì và lúa mạch, và một số loại ngũ cốc khác, tất cả đều được sử dụng để làm cho hai loại thực phẩm chính là bánh mì và bia [39] Các cây lanh bị nhổ bật gốc trước khi chúng bắt đầu ra hoa, vốn được trồng để lấy sợi. Những sợi này được tách dọc theo chiều dài của nó và xe thành sợi, được sử dụng để dệt vải lanh và may quần áo. Cây cói mọc trên các bờ của sông Nile đã được sử dụng để làm giấy. Rau và hoa quả được trồng ở những mảnh đất vườn, gần các ngôi nhà và trên khu đất cao hơn, và phải được tưới nước bằng tay. Rau bao gồm tỏi tây, tỏi, dưa hấu, bí, đậu, rau diếp, và các cây trồng khác, ngoài ra còn có nho đã được chế biến thành rượu.[40]

Sennedjem plows his fields with a pair of oxen, used as beasts of burden and a source of food.

Chú thích

  1. ^ Hayes (1964) p. 220
  2. ^ Childe, V. Gordon (1953), "New light on the most ancient Near East" (Praeger Publications)
  3. ^ Patai, Raphael (1998), "Children of Noah: Jewish Seafaring in Ancient Times" (Princeton Uni Press)
  4. ^ James (2005) p. 40
  5. ^ Shaw (2002) p. 102
  6. ^ Shaw (2002) p. 120
  7. ^ Clayton (1994) p. 29
  8. ^ Shaw (2002) p. 148
  9. ^ Clayton (1994) p. 79
  10. ^ Shaw (2002) p. 158
  11. ^ a b Ryholt (1997) p. 310
  12. ^ Shaw (2002) p. 189
  13. ^ Shaw (2002) p. 224
  14. ^ a b Richard Ernest Dupuy, Trevor Nevitt Dupuy, HarperCollins (Firm), The Harper encyclopedia of military history: from 3500 BC to the present, trang 23
  15. ^ a b Scott Oden, Men of Bronze, trang 481
  16. ^ Trevor Nevitt Dupuy, Curt Johnson, David L. Bongard, The Harper encyclopedia of military biography, trang 18
  17. ^ M. A. Dandamaev, A political history of the Achaemenid empire, trang 18
  18. ^ Steven R. Ward, Georgetown University. Center for Peace and Security Studies, Immortal: a military history of Iran and its armed forces, trang 11
  19. ^ Steven R. Ward, Georgetown University. Center for Peace and Security Studies, Immortal: a military history of Iran and its armed forces, trang 12
  20. ^ M. A. Dandamaev, A political history of the Achaemenid empire, trang 14
  21. ^ M. A. Dandamaev, A political history of the Achaemenid empire, trang 22
  22. ^ Steven R. Ward, Georgetown University. Center for Peace and Security Studies, Immortal: a military history of Iran and its armed forces, trang 13
  23. ^ M. A. Dandamaev, A political history of the Achaemenid empire, trang 62
  24. ^ a b Steven R. Ward, Georgetown University. Center for Peace and Security Studies, Immortal: a military history of Iran and its armed forces, trang 14
  25. ^ M. A. Dandamaev, A political history of the Achaemenid empire, trang 71
  26. ^ M. A. Dandamaev, A political history of the Achaemenid empire, trang 73
  27. ^ M. A. Dandamaev, A political history of the Achaemenid empire, trang 75
  28. ^ Steven R. Ward, Georgetown University. Center for Peace and Security Studies, Immortal: a military history of Iran and its armed forces, trang 20
  29. ^ Margaret Bunson, Encyclopedia of ancient Egypt, trang 55
  30. ^ Shaw (2002) p. 405
  31. ^ James (2005) p. 63
  32. ^ Shaw (2002) p. 426
  33. ^ Shaw (2002) p. 422
  34. ^ a b Manuelian (1998) p. 358
  35. ^ Janet H. Johnson. “Women's Legal Rights in Ancient Egypt”. University of Chicago, 2004. Truy cập 31 tháng 8 năm 2010.
  36. ^ Manuelian (1998) p. 361
  37. ^ Nicholson (2000) p. 514
  38. ^ Nicholson (2000) p. 506
  39. ^ Nicholson (2000) p. 510
  40. ^ Nicholson (2000) pp. 577 and 630

Tài liệu tham khảo

  • Trevor Nevitt Dupuy, Curt Johnson, David L. Bongard, The Harper encyclopedia of military biography, HarperCollins, 1992.
  • Richard Ernest Dupuy, Trevor Nevitt Dupuy, HarperCollins (Firm), The Harper encyclopedia of military history: from 3500 BC to the present, HarperCollins, 1993. ISBN 0062700561.
  • Margaret Bunson, Encyclopedia of ancient Egypt, Infobase Publishing, 2002. ISBN 0816045631.
  • Scott Oden, Men of Bronze, Medallion Press, Inc., 2006. ISBN 1932815856.
  • Aldred, Cyril (1988). Akhenaten, King of Egypt. London, England: Thames and Hudson. ISBN 0-500-05048-1.
  • Allen, James P. (2000). Middle Egyptian: An Introduction to the Language and Culture of Hieroglyphs. Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 0-521-77483-7.
  • Badawy, Alexander (1968). A History of Egyptian Architecture. Vol III. Berkeley, California: University of California Press. ISBN 0-520-00057-9.
  • Billard, Jules B. (1978). Ancient Egypt: Discovering its Splendors. Washington D.C.: National Geographic Society.
  • Cerny, J (1975). Egypt from the Death of Ramesses III to the End of the Twenty-First Dynasty' in The Middle East and the Aegean Region kh. 1380–1000 BC. Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 0-521-08691-4.
  • Clarke, Somers (1990). Ancient Egyptian Construction and Architecture. New York, New York: Dover Publications, Unabridged Dover reprint of Ancient Egyptian Masonry: The Building Craft originally published by Oxford University Press/Humphrey Milford, London, (1930). ISBN 0-486-26485-8.
  • Clayton, Peter A. (1994). Chronicle of the Pharaohs. London, England: Thames and Hudson. ISBN 0-500-05074-0.
  • Cline, Eric H.; O'Connor, David Kevin (2001). Amenhotep III: Perspectives on His Reign. Ann Arbor, Michigan: University of Michigan Press. tr. 273. ISBN 0-472-08833-5.
  • Dodson, Aidan (1991). Egyptian Rock Cut Tombs. Buckinghamshire, UK: Shire Publications Ltd. ISBN 0-7478-0128-2.
  • Dodson, Aidan; Hilton, Dyan (2004). The Complete Royal Families of Ancient Egypt. London, England: Thames & Hudson. ISBN 0500051283.
  • El-Daly, Okasha (2005). Egyptology: The Missing Millennium. London, England: UCL Press. ISBN 1-844-72062-4.
  • Filer, Joyce (1996). Disease. Austin, Texas: University of Texas Press. ISBN 0-292-72498-5.
  • Gardiner, Sir Alan (1957). Egyptian Grammar: Being an Introduction to the Study of Hieroglyphs. Oxford, England: Griffith Institute. ISBN 0-900416-35-1.
  • Hayes, W. C. (October 1964). "Most Ancient Egypt: Chapter III. The Neolithic and Chalcolithic Communities of Northern Egypt". JNES 23: 217–272.
  • Imhausen, Annette; Eleanor Robson, Joseph W. Dauben, Kim Plofker, J. Lennart Berggren, Victor J. Katz (2007). The Mathematics of Egypt, Mesopotamia, China, India, and Islam: A Sourcebook. Princeton: Princeton University Press. ISBN 0-691-11485-4.
  • James, T.G.H. (2005). The British Museum Concise Introduction to Ancient Egypt. Ann Arbor, Michigan: University of Michigan Press. ISBN 0-472-03137-6.
  • Kemp, Barry (1991). Ancient Egypt: Anatomy of a Civilization. London, England: Routledge. ISBN 0415063469.
  • M. A. Dandamaev, A political history of the Achaemenid empire, BRILL, 1989. ISBN 9004091726.
  • Lichtheim, Miriam (1975). Ancient Egyptian Literature, vol 1. London, England: University of California Press. ISBN 0-520-02899-6.
  • Lichtheim, Miriam (1980). Ancient Egyptian Literature, A Book of Readings. Vol III: The Late Period. Berkeley, California: University of California Press. ISBN 0-520-24844-1.
  • Loprieno, Antonio (1995a). Ancient Egyptian: A linguistic introduction. Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 0-521-44849-2.
  • Loprieno, Antonio (1995b). "Ancient Egyptian and other Afroasiatic Languages". trong Sasson, J. M.. Civilizations of the Ancient Near East. 4. New York, New York: Charles Scribner. 2137–2150. ISBN 1-565-63607-4.
  • Loprieno, Antonio (2004). "Ancient Egyptian and Coptic". trong Woodward, Roger D.. The Cambridge Encyclopedia of the World's Ancient Languages. Cambridge, UK: Cambridge University Press. 160–192. ISBN 0-52-156256-2.
  • Lucas, Alfred (1962). Ancient Egyptian Materials and Industries, 4th Ed. London, England: Edward Arnold Publishers. ISBN 1854170465.
  • Mallory-Greenough, Leanne M. (2002). "The Geographical, Spatial, and Temporal Distribution of Predynastic and First Dynasty Basalt Vessels". The Journal of Egyptian Archaeology (London, England: Egypt Exploration Society) 88: 67–93. doi:10.2307/3822337.
  • Manuelian, Peter Der (1998). Egypt: The World of the Pharaohs. Bonner Straße, Cologne Germany: Könemann Verlagsgesellschaft mbH. ISBN 3-89508-913-3.
  • McDowell, A. G. (1999). Village life in ancient Egypt: laundry lists and love songs. Oxford, England: Oxford University Press. ISBN 0-19-814998-0.
  • Meskell, Lynn (2004). Object Worlds in Ancient Egypt: Material Biographies Past and Present (Materializing Culture). Oxford, England: Berg Publishers. ISBN 1-85973-867-2.
  • Midant-Reynes, Béatrix (2000). The Prehistory of Egypt: From the First Egyptians to the First Pharaohs. Oxford, England: Blackwell Publishers. ISBN 0-631-21787-8.
  • Nicholson, Paul T. et al. (2000). Ancient Egyptian Materials and Technology. Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 0521452570.
  • Oakes, Lorna (2003). Ancient Egypt: An Illustrated Reference to the Myths, Religions, Pyramids and Temples of the Land of the Pharaohs. New York, New York: Barnes & Noble. ISBN 0-7607-4943-4.
  • Robins, Gay (2000). The Art of Ancient Egypt. Cambridge, Massachusetts: Harvard University Press. ISBN 0-674-00376-4.
  • Ryholt, Kim (January 1997). The Political Situation in Egypt During the Second Intermediate Period. Copenhagen, Denmark: Museum Tusculanum. ISBN 8772894210.
  • Scheel, Bernd (1989). Egyptian Metalworking and Tools. Haverfordwest, Great Britain: Shire Publications Ltd. ISBN 0747800014.
  • Shaw, Ian (2003). The Oxford History of Ancient Egypt. Oxford, England: Oxford University Press. ISBN 0-500-05074-0.
  • Siliotti, Alberto (1998). The Discovery of Ancient Egypt. Edison, New Jersey: Book Sales, Inc. ISBN 0-7858-1360-8.
  • Strouhal, Eugen (1989). Life in Ancient Egypt. Norman, Oklahoma: University of Oklahoma Press. ISBN 0-8061-2475-x.
  • Tyldesley, Joyce A. (2001). Ramesses: Egypt's greatest pharaoh. Harmondsworth, England: Penguin. 76–77. ISBN 0-14-028097-9.
  • Vittman, G. (1991). "Zum koptischen Sprachgut im Ägyptisch-Arabisch". Wiener Zeitschrift für die Kunde des Morgenlandes (Vienna, Austria: Institut für Orientalistik, Vienna University) 81: 197–227.
  • Walbank, Frank William (1984). The Cambridge ancient history. Cambridge, UK: Cambridge University Press. ISBN 0-521-23445-X.
  • Wasserman, James; Faulkner, Raymond Oliver; Goelet, Ogden; Von Dassow, Eva (1994). The Egyptian Book of the dead, the Book of going forth by day: being the Papyrus of Ani. San Francisco, California: Chronicle Books. ISBN 0-8118-0767-3.
  • Wilkinson, R. H. (2000). The Complete Temples of Ancient Egypt. London, England: Thames and Hudson. ISBN 0500051003.

Xem thêm

Đọc thêm

  • Chronology of World History, GSP Freeman Greenville - Rex Collins - London 1975
  • L'Egypte Ancienne - Jean Vercoutter - Editions Que-sais-je?, Paris 1982.
  • Les premières civilisations de la Méditerranée - Jean-Gabriel Leroux - Editions Que-sais-je?, Paris 1941.
  • The Cambridge Ancient History - Volume 1 - Part 2

Liên kết ngoài

 

 +++++++++++++++++++++++++++++++++

1.2  Lịch sử Ai Cập

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Bài này nằm trong
Lịch sử Ai Cập.
Ai Cập cổ đại
Ai Cập thuộc Ba Tư
Ai Cập thuộc Hy Lạp
Ai Cập thuộc La Mã
Ai Cập thuộc Ả Rập
Nhà Tulun
Nhà Ikhshid
Nhà Fatima
Nhà Ayyub
Nhà Mamluk
Ai Cập thuộc Ottoman
Nhà Muhammad Ali
Ai Cập hiện đại
Người Ai Cập

Hathor, nữ thần của dải Ngân Hà
Lịch sử Ai Cập là lịch sử của một lãnh thổ thống nhất lâu đời nhất trên thế giới. Vùng thung lũng sông Ninl tạo một khối địa lý thiên nhiên và kinh tế, bao bọc bởi sa mạc hai bên đông tây, phía bắc giáp biển, và phía nam là các hố nước sông Nin. Vấn đề quản lý nguồn nước sông Nin đưa đến thành lập chính quyền khu vực này từ khoảng năm 5000 TCN. Vì địa thế của Ai Cập gây khó khăn cho những nước khác đến chiếm đóng, xứ này giữ độc lập tự chủ trong nhiều thế kỷ. Tuy nhiên, từ khi con người tổ chức được những đoàn quân lớn vượt sa mạc, và những hạm đội lớn băng qua biển, thì Ai Cập liên tiếp bị nhiều đế quốc vào đô hộ, đưa đến sự mất đi chữ viết, ngôn ngữ và bản sắc dân tộc.

Mục lục

Độc lập và ngoại xâm

Trong quá trình 7000 năm lịch sử, Ai Cập đã có những thời huy hoàng của người bản xứ cai trị trước năm 1000 TCN. Nhưng Ai Cập cũng bị người nước ngoài vào đô hộ hơn 2400 năm. Được biết đến thời xa xưa nhất là "người phương Đông" vào khoảng 3300 TCN. Kế đến là triều đại người Hyksos vào khoảng năm 1700 - 1580 TCN. Khoảng 600 năm sau có người Libya phía tây sang lập một triều đại. Năm 730 TCN Ai Cập rơi vào sự lệ thuộc người Nubia phía nam.
Năm 672 TCN Ai Cập bị một thế lực từ phương xa là đế quốc AssyriaIraq sang chiếm một thời gian ngắn. Giai đoạn 525 - 332 TCN Ai Cập là tỉnh của đế quốc Ba Tư, với một khoảng 61 năm độc lập 404 - 343 TCN. Ai Cập tiếp tục bị các đế quốc từ xa là MacedoniaLa Mã đến cai trị trước khi bị đế quốc Ả Rập láng giềng sang chiếm.
Từ cuối thế kỷ 9 trở đi, Ai Cập lại có được những chính quyền tự chủ, đóng đô trên đất Ai Cập, mặc dù những vị vua là người Thổ Nhĩ Kỳ (nhà Tulunid và nhà Mamluk giai đoạn đầu), người Nubia ở Sudan (một vị vua nhà Ikhshidid), người Ả Rập (nhà Fatima), người Kurd (nhà Ayyub) và người Circassian (nhà Mamluk giai đoạn sau).
Năm 1517, Ai Cập bị trở thành tỉnh của Đế quốc Ottoman người Thổ Nhĩ Kỳ, rồi trở thành nước của nhà Muhammad Ali người Albania (1805 - 1953). Ai Cập cũng chịu ảnh hưởng của Đế quốc PhápĐế quốc Anh.
Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser (19541970) có thể đúng phần nào khi ông cho rằng ông là người Ai Cập chính gốc đầu tiên giữ chức lãnh đạo Ai Cập tự trị từ khi pharaon Nectanebo II bị quân Ba Tư lật đổ năm 343 TCN.

Mức độ được quan tâm

Ít có lịch sử nước nào sánh được với lịch sử Ai Cập về mức độ được quan tâm. Một người, dù thuộc chủng tộc nào, văn hóa nào cũng không khỏi bị lôi cuốn bởi những kim tự tháp bên trong có bảo vật, mê hồn trận và những hàng chữ tượng hình, tuy đã được giải mã, nhưng vẫn còn đượm nhiều huyền bí. Ai Cập thời cổ còn được biết như Đất nước của các pharaon.
Ai Cập cũng là cái nôi của một nền văn minh rất cổ xưa, thầy của nền văn minh Hy Lạp, căn bản của văn minh các cường quốc Âu Mỹ ngày nay. Dưới thời nhà Ptolemaios (323 - 30 TCN), viện văn hóa Museion của Alexandriathư viện Alexandria cũng là tụ điểm tinh hoa của nền văn minh Hy Lạp.
Đối với hơn 3 tỷ tín đồ của hai tôn giáo lớn nhất thế giới ngày nay là Kitô giáoHồi giáo, Ai Cập là đất của kinh điển, nơi các thánh Abraham, Jacob, JosephMoses đã từng trải qua một quãng đời, và được ban nhiều điều mầu nhiệm ghi trong Kinh ThánhKinh Koran.
Sự thất truyền trên nhiều phương diện của văn minh cổ Ai Cập gợi cho người ta lòng hiếu kỳ háo hức muốn tìm lại một dĩ vãng huy hoàng của một thời đã mất, của một dân tộc cổ coi như không còn nữa.
Sau khi bị người Ả Rập vào chiếm và truyền bá đạo Hồi, Ai Cập dần dần trở thành một nước nói tiếng Ả Rập, với quốc giáo là đạo Hồi. Nhưng Ai Cập không giữ một vai trò thứ yếu đối với Hồi giáo hay chủng tộc Ả Rập. Viện đại học Al-Azhar ở thủ đô Cairo được ví như là tòa thánh Vatican của thế giới Hồi giáo. Cơ quan điều hành và gìn giữ ngôn ngữ Ả Rập cho 19 quốc gia nói tiếng Ả Rập nằm ở Ai Cập. Đây là những điểm khiến tín đồ Hồi giáo hay người nói tiếng Ả Rập cũng muốn biết thêm về lịch sử Ai Cập.
Ai Cập giữ một vai trò hàng đầu trong các cuộc Thập Tự Chinh giành thánh địa Jerusalem giữa các nước Kitô giáochâu Âu và các nước Hồi giáo ở Trung Đông. Ai Cập là đất dựng nghiệp của người anh hùng Saladin Khôn Ngoan nhân đạo và mã thượng, người đã giành lại được Jerusalem cho khối Hồi giáo, và quan trọng hơn, đã mở cổng cho con đường hoà bình giữa Âu ChâuTrung Đông.
Ai Cập cũng là tiền đồn bảo vệ châu Âu, châu Phibán đảo Ả Rập khỏi những cuộc tàn sát và tàn phá của đế quốc Mông Cổ. Khi quân Mông Cổ tiến công năm 1260, vài thế lực Kitô giáo đã ngưng Thập Tự Chinh để hợp tác với quân Hồi giáo của Ai Cập, đưa đến chiến thắng Ain Jalut, chiến thắng đầu tiên mà Âu ChâuTrung Đông biết được đối với quân Mông Cổ từ 40 năm. Sự vững mạnh của nhà Mamluk ở Ai Cập cũng khiến cho nhiều đợt tấn công của Mông Cổ trong vài mươi năm kế tiếp bị chận đứng.
Lịch sử Ai Cập cũng liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của nhiều danh nhân như Alexandros Đại Đế, Julius Caesar hay Napoléon Bonaparte. Cuộc đời của nhiều danh nhân Ai Cập như Thutmosis III, Ramesses II hay Cleopatra cũng đã được tiểu thuyết hóa hoặc quay thành phim để giới thiệu đến đại chúng khắp nơi.

Những giai đoạn lớn

Thời kỳ cổ đại (khoảng 3100 TCN - 525 TCN)

Bài chi tiết: Ai Cập cổ đại
Với những trang sử bắt đầu từ khoảng năm 5000 TCN (hoặc 3000 TCN nếu không tính các nước và các vua trước thời pharaon Menes) và kết thúc năm 332 TCN hoặc 30 TCN, thời Ai Cập cổ đại vẫn dài hơn tất cả các thời đại khác của lịch sử Ai Cập cộng lại, và có nhiều vương triều hơn tất cả các thời đại khác.
Đây cũng là thời đại duy nhất mà người Ai Cập nguyên thủy cai trị được toàn lãnh thổ Ai Cập.

Thời kỳ thuộc Ba Tư (525 TCN - 404 TCN ) (343 TCN - 332 TCN)

Bài chi tiết: Ai Cập thuộc Ba Tư
Năm 525 TCN, Ai Cập trở thành một vùng lãnh thổ thuộc đế quốc Ba Tư cổ đại. Các Shahanshah Ba Tư (tức Vua của các vua) trị vì trong thời này cũng dùng hiệu pharaon tại Ai Cập. Người Ai Cập khôi phục được độc lập trong 61 năm (404 TCN - 343 TCN), trước khi bị Ba Tư đô hộ lần thứ hai (343 TCN - 332 TCN).

Thời kỳ thuộc Hy Lạp (332 TCN - 30 TCN)

Bài chi tiết: Ai Cập thuộc Hy Lạp
Bài chi tiết: Nhà Ptolemaios
Với cuộc chinh phục của Alexandros Đại Đế vua xứ Macedonia, và sự kế nghiệp của nhà Ptolemaios do một cận tướng của Đại Đế là Ptolemaios I Soter lập ra, Ai Cập trở thành một thành viên của đại gia đình các quốc gia nói tiếng Hy Lạp. Thủ đô Alexandria của Ai Cập cũng trở thành trung tâm lớn nhất và rực rỡ nhất của văn minh Hy Lạp. Các vua tộc Hy Lạp thời này cũng dùng hiệu Pharaon đối với người Ai Cập.

Thời kỳ thuộc La Mã (30 TCN - 642)

Bài chi tiết: Ai Cập thuộc La Mã
Ai Cập trở thành tỉnh của La Mã năm 30 TCN và người Ai Cập không được coi là công dân La Mã trong hơn hai thế kỷ. Đây là thời kỳ mà dân tộc cổ Ai Cập mất đi bản sắc, và là thời kỳ tôn giáo cổ Ai Cập biến mất, nhường chỗ cho Kitô giáo thành tôn giáo chính.
Cuối thời kỳ thuộc La Mã, có một thời gian ngắn Ai Cập bị lệ thuộc Ba Tư lần thứ ba (621 - 629).

Thời kỳ thuộc Ả Rập (642 - 935)

Bài chi tiết: Ai Cập thuộc Ả Rập
Trong cuộc chiến tranh giữa quốc gia Hồi giáo của người Ả Rập và đế quốc Đông La Mã, đất Ai Cập đổi sang quyền kiểm soát của người Ả Rập. Thời này cư dân Ai Cập phần lớn bị đồng hóa thành người Ả Rập. Kitô giáo dần dần trở thành tôn giáo thứ hai, sau đạo Hồi tôn giáo của giới cai trị.
Với thời gian, quốc gia Hồi giáo biến chất thành đế quốc Ả Rập, và khi đế quốc Ả Rập suy yếu thì Ai Cập lại có những triều đại địa phương cai trị.

Nhà Tulunid (868 - 905)

Bài chi tiết: Nhà Tulunid
Triều đại địa phương đầu tiên là nhà Tulunid của những tổng đốc người Thổ Nhĩ Kỳ. Triều đại này đã đặt được những nền móng kinh tế và quân sự vững chắc cho một nước Ai Cập tự chủ.

Nhà Ikhshidid (935 - 969)

Bài chi tiết: Nhà Ikhshidid
Sau nhà Tulunid, Ai Cập lại trực thuộc đế quốc Ả Rập thêm 30 năm (905 - 935). Khi đế quốc này suy yếu lần nữa thì Ai Cập thực thụ bước sang thời kỳ tự chủ với nhà Ikhshidid.

Nhà Fatima (969 - 1171)

Bài chi tiết: Nhà Fatima
Nhà Fatima đã bắt đầu tại Tunisia từ năm 910, nhưng khi họ chiếm được Ai Cập năm 969 thì họ lập tức cho xây thành phố Cairo ở Ai Cập và dời đô về đấy. Do đó, đối với Ai Cập thì nhà Fatima bắt đầu vào năm 969.

Nhà Ayyub (1171 - 1250)

Bài chi tiết: Nhà Ayyub
Nhà Ayyubid khởi nghiệp tại Ai Cập, nhưng dựa trên lực lượng đến từ Syria. Có nhiều lúc họ cai trị từ Syria.

Nhà Mamluk (1250 - 1517)

Bài chi tiết: Nhà Mamluk
Nhà Mamluk là một triều đại của những người nô lệ trở thành tướng và nối nhau lên ngôi sultan trị nước. Đây là một hiện tượng đặc biệt có lẽ chỉ có trong lịch sử Ai Cậplịch sử Ấn Độ.
Nhà Mamluk nhiều khi được coi là hai triều đại: nhà Bahri (1250 - 1390) với các lãnh tụ người Thổ Nhĩ Kỳnhà Burji (1390 - 1517) người Circassian.

Thời kỳ thuộc Thổ Nhĩ Kỳ (1517 - 1805)

Năm 1517, Ai Cập bị sáp nhập vào đế quốc Ottoman. Các nô tướng Mamluk và con cháu nhà Burji vẫn được người Ottoman trọng dụng trong chính quyền.
Vào cuối giai đoạn này, Ai Cập bị quân Pháp của Napoléon Bonaparte vào chiếm 3 năm (1798 - 1801).

Nhà Muhammad Ali (1805 - 1953)

Bài chi tiết: Nhà Muhammad Ali
Năm 1805, sultan nhà Ottoman phong cho tướng Muhammad Ali làm tổng đốc Ai Cập. Từ đó, Ai Cập trở thành một giang sơn tự trị của nhà Muhammad Ali. Ngoài mặt, Ai Cập vẫn là tỉnh hay nước chư hầu của đế quốc Ottoman cho đến năm 1914.
Ai Cập cũng bị đế quốc Anh chiếm đóng từ năm 1882, và lập cuộc Bảo Hộ trong khoảng (1914 - 1922). Người Anh chỉ hoàn toàn rút khỏi Ai Cập năm 1956, sau khi nhà Muhammad Ali đã bị truất phế.
Mặc dù không lúc nào có được trọn chủ quyền cai trị Ai Cập trên cả danh nghĩa lẫn thực tế, nhà Muhammad Ali đã có công lớn canh tân đất nước, khiến Ai Cập trở thành một nước hiện đại bậc nhất thế giới bên ngoài châu ÂuBắc Mỹ.
Song song với cuộc canh tân, khoa khảo cổ học Ai Cập, chủ yếu do người Âu đẩy mạnh, cũng đạt được nhiều thành quả vang dội, đáng kể nhất là chữ viết cổ Ai Cập được giải mã và đọc được trở lại.

Thời cận đại và hiện đại (1953 - nay)

Bài chi tiết: Ai Cập hiện đại
Ảnh hưởng phong trào dân chủ từ châu Âu, người Ai Cập lập các đảng phái chính trị, đưa đến một cuộc đảo chính do quân đội thực hiện năm 1952 và sự khai sinh nước Cộng hòa Ả Rập Ai Cập năm 1953.
Ai Cập giữ một vai trò quan trọng hàng đầu trong những cố gắng thống nhất các xứ nói tiếng Ả Rập, trong những tiến trình chiến tranh và hoà bình giữa khối Ả Rập và quốc gia Do Thái, và trong lãnh vực văn hóa đối với các nước bờ nam Địa Trung Hải.

Tài liệu tham khảo

  • Freeman-Greenville, G.S.P. Chronology of World History: A Calendar of Principal Events from 3000 B.C. to A.D. 1976. 2nd ed. London: Rex Collings, 1978.
  • Grun, Bernard. The Timetables of History: A Horizontal Linkage of People and Events. 3rd rev. ed. New York: Simon and Schuster, 1991.

Xem thêm

 +++++++++++++++++++++++++++++++++

 

1.3  Ai Cập dưới thời nhà Muhammad Ali

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Bài này nằm trong
Lịch sử Ai Cập.
Ai Cập cổ đại
Ai Cập thuộc Ba Tư
Ai Cập thuộc Hy Lạp
Ai Cập thuộc La Mã
Ai Cập thuộc Ả Rập
Nhà Tulun
Nhà Ikhshid
Nhà Fatima
Nhà Ayyub
Nhà Mamluk
Ai Cập thuộc Ottoman
Nhà Muhammad Ali
Ai Cập hiện đại
Người Ai Cập
Lịch sử Ai Cập dưới triều đại Muhammad Ali Pasha (1805 - 1953) là một thời kỳ cải cách và hiện đại hóa nhanh chóng, khiến Ai Cập trở nên một trong những nước phát triển nhất thế giới bên ngoài châu Âu. Nhưng những công cuộc này làm chính phủ chi tiêu quá độ, khiến nhà nước Ai Cập phá sản và rơi dần vào sự kiểm soát của vương quốc Anh. Với sự suy yếu của vương quốc này qua hai cuộc thế chiến, các phe nhóm dân chủ đấu tranh giành độc lập cho Ai Cập ngày càng mạnh lên, và cuối cùng truất phế nhà vua, lập nước Cộng hòa Ả Rập Ai Cập.

Mục lục

Các lãnh tụ của nhà Muhammad Ali (1805-1953)

Bài chi tiết: Nhà Muhammad Ali

Lãnh tụ Muhammad Ali (1805 - 1849)

Khởi nghiệp

Năm 1798, quân Pháp, dưới sự chỉ huy của Napoléon sang chiếm Ai Cập trong tay nhà Ottoman. Nhà Ottoman phát binh sang giành lại Ai Cập, có quân Anh hỗ trợ. Quân Pháp bị đánh bại, phải rút. Trong đoàn quân Ottoman có viên phó tướng, người Albania, tên là Muhammad Ali (cũng thường biên là Mehmet Ali hay Mehmed Ali, theo khẩu âm Thổ Nhĩ Kỳ) nhanh chóng trở thành một nhân vật uy quyền nhất Ai Cập. Người Anh cần giữ lực lượng để đối phó với Pháp, và muốn giữ quan hệ tốt với nhà Ottoman, nên không chiếm Ai Cập. Khi họ rút đi rồi, thì một cuộc nội chiến tay ba xảy ra giữa quân Đế quốc Ottoman người Thổ Nhĩ Kỳ, quân nô lệ Mamluk Ai Cập, và quân đánh thuê người Albania. Cuộc nội chiến này kéo dài từ năm 1803 đến năm 1807. Tướng Muhammad Ali trở thành bá chủ đất Ai Cập năm 1805, khi vua Thổ Nhĩ Kỳ là Selim III (1789-1807) công nhận ông là Wali, hay tổng đốc Ai Cập. Từ đó, Muhammad Ali không bị tranh chấp chủ quyền Ai Cập, và tập trung được nỗ lực để củng cố một triều đại độc lập. Ông, và một số con cháu ông thường được gọi với tước hiệu Pasha đi sau tên. Danh từ Pasha tiếng Thổ Nhĩ Kỳ có thể chỉ định “quan tổng đốc”, “tướng”,… nói chung có thể dịch là “đại nhân” hay “ngài”.

Những cải cách

Cải cách quân đội (1807 - 1811)

Mặc dù quân Pháp bị quân Anh đánh bại tại Ai Cập, nhưng sau đó, dưới sự thống lĩnh của Napoléon, họ nhiều lần thắng lợi vẻ vang tại lục địa châu Âu, nên thường được coi là quân đội mạnh nhất thế giới. Để canh tân quân đội của mình, Muhammad Ali Pasha đã thuê các sĩ quan Pháp sang huấn luyện cho quân sĩ của ông. Các sĩ quan này được gọi là nizamiye [1]
Để loại trừ một mầm họa, năm 1811 Muhammad Ali ra lệnh tàn sát hầu hết các nô tướng Mamluk. [2]

Chiếm hữu đất đai (1808 - 1817)

Kể từ năm 1808, Muhammad Ali bắt đầu chương trình mua lại đất từ các tư nhân trong khắp Ai Cập. Những người này bị cưỡng bách bán đất cho ông, đổi lấy những số tiền chu cấp định kỳ không tương xứng với giá đất. Ngay khi Muhammad Ali đi đánh Ả Rập Saudi thì chương trình này vẫn được tiếp tục. Với phương pháp “quốc hữu hóa” hay đúng hơn là “quốc trưởng hữu hóa” này, Muhammad Ali trở thành chúa đất của phần lớn Ai Cập.

Những cải cách khác

Trong khoảng thời gian 1818 - 1820, Muhammad Ali lại đẩy mạnh những cải cách: cải tổ điều hành tài chính, hiện đại hóa các cơ cấu, rước chuyên viên kỹ thuật nước ngoài đến làm việc, và cải thiện nông nghiệp.[3]
Ông cho xây lại thành phố Alexandria khoảng năm 1810. Năm 1819, ông cho khởi công đào kênh Mahmudiya để dẫn nước sông Nile vào Alexandria. Kênh này được đặt tên theo vua Mahmud II của Thổ. Đến năm 1850 thì Alexandria đã lấy lại được vẻ huy hoàng của thời xưa.
Năm 1822, sau khi chiếm được Sudan, tướng Mahommed Bey đem bông vải từ Sudan về trồng. Kỹ nghệ bông vải được tổ chức và phát triển mạnh, chỉ mấy năm sau Muhammad Ali đã có được một nguồn lợi quan trọng từ kỹ nghệ này.
Nền giáo dục trong nước được khuyến khích, và đặc biệt là môn y học. Năm 1826, ông gởi nhiều sinh viên đi du học ở Pháp, gọi là phong trào 'Rifa'at al-Tahtawi'.[4]
Về tôn giáo, Muhammad Ali cải cách viện đại học Al-Azhar, được ví như là toà thánh Vatican của tín đồ Hồi giáo trên thế giới. Ông cũng cho kiểm soát chặt chẽ hơn các đạo viện Hồi giáo.
Các doanh nhân từ châu Âu được đặc biệt ưu đãi, vì Muhammad Ali cần đến họ để xuất khẩu hàng hóa của ông. Hải cảng Alexandria ngày càng thịnh vượng. Hàng hóa giữa châu Âu và Ấn Độ cũng đi qua đất Ai Cập ngày một nhiều. Hình ảnh giàu mạnh, văn minh của người Âu cũng khiến cho cộng đồng Cơ Đốc giáo trong nước được thêm nể trọng.

Chiến tranh tại bán đảo Ả Rập (1811 - 1817)

Bài chi tiết: Chiến tranh Ottoman-Saudi
Trước đó, khi người phái Wahabbi (một phong trào của đạo Hồi kêu gọi trở về tôn giáo “nguyên thủy”) chiếm thành phố Mecca năm 1802, vua Ottoman ra lệnh tướng Muhammad Ali từ Ai Cập cất quân chiếm lại Mecca. Việc này đưa đến cuộc Chiến tranh Ottoman-Saudi (1811-1818) giữa Ai Cập dưới triều đại Muhammad Ali (trên danh nghĩa nhà Ottoman) và người phái Wahabbi của miền Hedjazbán đảo Ả Rập.

Chiến dịch thứ nhất (1811 - 1815)

Theo lệnh vua Thổ là Mahmud II (1808-1839), năm 1811 tổng đốc Muhammad Ali sai con ruột là Tusun Pasha, mới 16 tuổi, đem 20.000 quân, 2.000 ngựa đi đánh người Saudi ở bán đảo Ả Rập. Sau một thời gian tiến quân thành công, lực lượng này bị đẩy lui tại ải Jejeida gần Al-Safra, và phải rút về Yanbu. Cuối năm, có thêm viện binh, tướng Tusun lại tiến công. Lần này lấy được thành phố Medina sau một cuộc bao vây khá lâu. Kế đó tướng Tusun lấy được Jeddah và Mecca, và lại thắng trận sau đó, bắt được tướng phe Saudi.
Nhưng tình thế lại chuyển thành bất lợi, và tổng đốc Muhammad Ali, phải đích thân rời Ai Cập vào mùa hè năm 1813 để điều khiển quân sĩ, để lại con trai là Ibrahim giữ nước. Tuy gặp nhiều chướng ngại vì phong thổ và chiến thuật của đối phương, ông giữ được thế thượng phong, và phế được vị Sharif của Mecca. Sau cái chết của lãnh tụ Saudi là Saud, ông ký hoà ước với con trai vua Saud là Abdullah I năm 1815.
Được tin là người Thổ muốn nhân lúc ông vắng mặt đánh lấy Ai Cập để chiếm lại thực quyền, và hoàng đế Napoléon đã vượt thoát khỏi nơi giam cầm là đảo Elba, tổng đốc Muhammad Ali bèn rút về giữ nước. Ông về đến thủ đô Cairo đúng vào ngày Napoléon thua trận Waterloo.

Chiến dịch thứ nhì (1816 - 1818)

Nghe tin quân đội nổi loạn ở Cairo, công tử Tusun (con của tổng đốc Muhammad Ali) rút quân về, nhưng qua đời năm 1816 lúc tuổi mới 20. Tổng đốc Muhammad Ali, không hài lòng với hoà ước ký kết với người Saudi, và vì trong đó có mấy khoản không thi hành trọn vẹn, nên lại phát binh đánh bán đảo Ả Rập. Những quân nhân mới nổi loạn trước đó ít lâu đều bị đưa ra chiến trường.
Chiến dịch này do con trưởng của ông (con nuôi) là Ibrahim Pasha điều khiển, khởi sự vào mùa thu năm 1816. Cuộc chiến kéo dài và khó khăn nhưng đến năm 1818 thì Ibrahim Pasha chiếm được kinh đô Saudi là Diriyah. Vua Saudi là Abdullah I cùng với thủ quỹ và bí thư của ông bị bắt giải về Constantinopolis (kinh đô của đế quốc Ottoman) (có vài tài liệu nói là giải về Cairo). Mặc dù có lời hứa giữ an toàn của Ibrahim Pasha, họ đã bị xử tử. Công tử Ibrahim Pasha trở về Cairo khi sắp bước sang năm 1819, sau khi đã đè bẹp mọi chống đối ở bán đảo Ả Rập.

Đánh Libya (1820)

Tháng 2 năm 1820, Muhammad Ali sai quân đánh đông bộ Libya, lấy được ốc đảo Siwa.

Chiếm Sudan (1820 - 1822)

Năm 1820, Muhammad Ali sai con út là Ismail đem 4 - 5000 quân, người Thổ Nhĩ Kỳ và Ả Rập, đi xâm lược Sudan. Đoàn quân rời Cairo vào tháng 7, nhanh chóng chiếm được Nubia, đánh bại người Ả Rập Shagia phía nam tỉnh Dongola, phá được tàn quân Mamluk, và chiếm được đất Sennar ở trung bộ Sudan mà không phải đánh trận nào.
Năm 1821, Ibrahim Pasha cho xây thị trấn Khartoum, trở thành thủ đô của Sudan sau này. Năm ấy, Muhammad Ali lại sai tướng Mahommed Bey, với khoảng 4500 quân và 8 khẩu trọng pháo xâm lược xứ Kordofan ở trung bộ Sudan. Sau một cuộc chiến khốc liệt, tướng Mahommed Bey thành công.
Tháng 10 năm 1822, công tử Ismail và đoàn tùy tùng bị vua Nimr của xứ Shendi (ở bắc bộ Sudan) thiêu sống. Quyền cai trị Sudan tập trung về một mình tướng Mahommed Bey, một người tàn bạo hà khắc, khiến dân chúng ở đấy hết sức là khổ sở. Lúc bấy giờ người Ai Cập cũng kiểm soát thêm được hai hải cảng của Biển ĐỏSuakinMassawa.

Chữ viết cổ Ai Cập “sống lại” (1822)

Người Pháp, lúc sang chiếm Ai Cập, có đào được ở thành Rashid một phiến đá có ghi chữ Hy Lạp và hai thứ chữ cổ Ai Cập (chữ bình dân và chữ tượng hình). Lúc bấy giờ môn khảo cổ Ai Cập đã thịnh hành nên khi ký hoà ước Pháp rút khỏi Ai Cập, có ghi trong tờ hoà ước là Pháp phải nhượng cho Anh phiến đá đặc biệt đó.
Tháng 5 năm 1816, nhà bác học và ngôn ngữ học Anh Thomas Young xuất bản tại Cambridge về một kết quả nghiên cứu sơ khởi về chữ “bình dân” trên phiến đá thành Rosetta. Năm 1819, trong phần phụ lục của bộ bách khoa tự điển Encyclopaedia Britannica, Thomas Young lại tuyên bố đã giải mã được 13 chữ cái của văn tự cổ Ai Cập. Sau này kiểm lại chỉ có 5 chữ là đúng, và hơn nữa những chữ này chỉ tìm được bằng cách phỏng đoán chớ không phải chứng minh bằng lý luận khoa học. [5]
Người Pháp, tuy đã giao phiến đá thành Rosetta, nhưng có sao lại những dòng chữ khắc trên đó. Giới khảo cổ Pháp cũng làm việc với giới khảo cổ Anh trong tinh thần cởi mở. Nhờ vậy, một nhà sử học trẻ người Pháp tên là Jean François Champollion căn cứ trên phiến đá này đã tiến đến việc giải mã được toàn bộ chữ viết cổ Ai Cập bằng chứng minh qua lập luận khoa học. Ngày 27 tháng 9 năm 1822, tại Académie des inscriptions et des belles-lettres (tạm dịch Viện hàn lâm văn chương bút ký) của Pháp, có mặt ông Thomas Young, kết quả cuộc giải mã này đã được công bố. [6] Năm 1824, nhà nước Pháp xuất tiền cho ông Champollion xuất bản quyển Précis du système hiéroglyphique des anciens Egyptiens (tạm dịch Xác định hệ thống chữ tượng hình của người cổ Ai Cập), [7] đánh dấu sự sống lại của chữ cổ Ai Cập sau 15 thế kỷ thầm lặng. [8]
Trong chuyến đi khảo cổ tại Ai Cập, Champollion và phái đoàn của ông đã được lãnh tụ Muhammad Ali đón tiếp ngày 24 tháng 8 năm 1828. [9]
Với Champollion, kho tàng văn minh cổ Ai Cập như được đưa trở về ánh sáng bằng một chuyến xe tốc hành. Với sự cộng tác của ông Léon Jean-Joseph Dubois, ông lần lượt xuất bản bộ Le panthéon égyptien (tạm dịch Thần giới Ai Cập) với quyển 1 ra mắt độc giả năm 1823 cho đến quyển 15 ra mắt năm 1831. [10] Ngoài ra ông cũng để lại nhiều công trình khác như bộ Grammaire égyptienne (Văn phạm tiếng Ai Cập), soạn trong khoảng 1830 - 1832. [11]

Cuộc nổi dậy của Ahmad (1824)

Năm 1824 tại miền Thượng Ai Cập có người tên Ahmad, ở làng al-Salimiyyah, cách Thebes vài cây số, xưng là tiên tri, nổi lên chống lại chính quyền Muhammad Ali. Số người theo ông đông khoảng 2 - 3 vạn, phần đông là nông dân, kế đến là lính của lực lượng Nizam Gedid đào ngũ.
Giới nông dân vốn căm giận những cải cách của tổng đốc Muhammad Ali, nhất là sự tăng thuế và cưỡng bách lao động. Phần đông những người đáng thương này không có vũ khí nào khác hơn là cây gậy nabbut dài đặc thù của nông dân Ai Cập. Cuộc nổi dậy này bị đàn áp đẫm máu, khoảng 1/4 số người nổi dậy bị tàn sát. Thủ lĩnh Ahmad thoát được, nhưng từ đó mất luôn tăm tích. Đây là lần cuối cùng người trong nước toan đánh đổ quyền chính của tổng đốc Muhammad Ali.
Những năm về sau trong nước rất yên trị. Quân binh tinh nhuệ mà kỷ luật lại cao. Khách lữ hành đi trên sông Nile hay trên các con đường cái quan không sợ cướp bóc.

Chiến tranh tại Hy Lạp (1824 - 1828)

Năm 1821 người Hy Lạp nổi lên để giành lại độc lập trong tay người Thổ Ottoman. Quân Thổ Nhĩ Kỳ dần dần núng thế, nên phải gọi tổng đốc Muhammad Ali phát binh đánh giúp. Muhammad Ali đặt điều kiện là chỉ ra quân nếu được nhà Ottoman giao cho đảo Cyprus, đảo Crete, bán đảo Peloponnesus ở miền nam Hy Lạp, và đất Syria. Sau khi nhà Ottoman chấp thuận, ông sai con trưởng là Ibrahim Pasha xuất quân.
Năm 1824, 60 tàu chiến và 17.000 quân Ai Cập sang đến đảo Crete, và năm 1825 tràn sang bán đảo Peloponnesus. Quân Ai Cập và quân Ottoman tuy bị nhiều tổn thất nặng nề, nhưng dần dần cũng chiếm được thế thượng phong. Cuộc khởi nghĩa của người Hy Lạp đã sắp bị dập tắt lúc gần cuối năm 1827, thì quân ba nước đế quốc Anh, Pháp, Nga đến cứu. Ngày 20 tháng 10 năm 1827, tại trận Navarino trên biển, liên quân Ai Cập-Ottoman bị liên quân Nga-Anh-Pháp đánh cho đại bại. Ibrahim Pasha không bỏ cuộc, cố thủ ở Peloponnesus, nhưng sau đó liệu không địch nổi bộ binh Pháp, nên rút khỏi vùng này vào tháng 10 năm 1828.
Theo hoà ước do người Anh đề nghị, Ai Cập được giữ đảo Crete. Nhà Ottoman còn tiếp tục đánh đến năm 1832 mới công nhận Hy Lạp độc lập.

Chiến tranh Ai Cập - Thổ lần thứ nhất (1831 - 1833)

Thấy đế quốc Ottoman đã suy yếu, Muhammad Ali chiêu mộ binh sĩ, lập một hạm đội mới, quyết thôn tính Thổ Nhĩ Kỳ. Lấy cớ rằng Abdullah Pasha, tổng đốc thành AcrePalestine (lúc bấy giờ thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) chứa chấp 6.000 nông dân nghèo fellah từ Ai Cập trốn thuế và lao động cưỡng bách chạy sang [12], ông sai công tử Ibrahim Pasha đem quân vào đế quốc Ottoman ngày 31 tháng 10 năm 1831.
Quân Ai Cập chiếm Palestine và Syria dễ dàng, nhưng phải bao vây 6 tháng mới lấy được thành Acre ở Palestine gần biên giới Ai Cập (3/11/1831 đến 27/5/1832). Được Syria rồi, quân Ai Cập tiến vào Tiểu Á tức bán đảo Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày 21 tháng 12 năm 1832, Ibrahim Pasha đánh bại đại quân Thổ do Đại Vizia Reshid Mehmed Pasha cầm đầu tại trận Konya. Từ Konya đến kinh đô Constantinopolis không còn đạo quân nào ngăn trở nữa, Muhammad Ali sẵn sàng thực hiện nước cờ kế tiếp là truất phế vua Mahmud II để lập con trưởng vua này là hoàng tử bé thơ Abdul Mejid lên thay.
Đế quốc Nga vốn chiến tranh liên miên với Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng lại không muốn nước láng giềng Thổ Nhĩ Kỳ bị thay thế bởi một đế quốc mạnh hơn, nên đề nghị giúp đỡ vua Mahmud II. Lúc bấy giờ nhà Ottoman vừa trả độc lập cho Hy Lạp và hoà với Nga, nên nhận sự giúp đỡ quân sự của Nga. Cuộc chiến chuyển thành những vòng đàm phán do người Nga chủ trì, và cuối cùng đạt đến thỏa ước Kutahya ký ngày 14 tháng 5 năm 1833.
Theo thỏa ước Kutahya, Muhammad Ali vẫn chỉ được coi là tổng đốc (Wali), và phải rút quân khỏi Tiểu Á. Nhưng ông được công nhận quyền cai trị đảo Crete, đất Hedjaz ở bán đảo Ả Rập. Con ông là Ibrahim Pasha được quyền cai trị Syria và quận Adana ở Tiểu Á. Cha con ông, với tính cách là bề tôi, phải nộp cống cho nhà Ottoman, nhưng thực ra chỉ phải nộp cống rất ít. Thực tế có lẽ cổ kim chưa có vị tổng đốc nào có được thực quyền trên một lãnh thổ to lớn ngần ấy: Ai Cập, Sudan, tây bộ Ả Rập, Syria, Lebanon, Palestine,…
Công tử Ibrahim Pasha áp dụng lối cai trị hà khắc ở Ai Cập tại các vùng mới chiếm đóng, nên không đầy một năm, người Syria, người theo giáo phái Druze (ở Liban) và người Ả Rập nổi dậy chống đối. Họ bị đích thân Muhammad Ali đem quân đàn áp dã man, và sự uất ức của họ đem lại cho vua Mahmud II niềm hy vọng sẽ chiếm lại được các vùng họ ở.

Tình hình trong nước (1833 - 1839)

Theo hồi ký của ông Ferdinand de Lesseps, phó lãnh sự Pháp ở Alexandria, một trận dịch lớn xảy ra trong khoảng 1833-1837 trong vòng 2 năm. Đến một phần ba dân số AlexandriaCairo bị thiệt mạng vì trận dịch này.

Chiến tranh Ai Cập - Thổ lần thứ nhì (1839 - 1841)

Mùa xuân năm 1839 vua Mahmud II dồn quân đến biên giới Syria. Ibrahim Pasha thấy bị đe dọa bên sườn, bèn ra quân tấn công quân Ottoman tại trận Nezib ngày 24 tháng 6. Một lần nữa, quân Ottoman bị bại trận. Sáu ngày sau, trước khi tin này về tới kinh đô Constantinopolis, Mahmud II qua đời.
Cũng như Nga, hai đế quốc Anh và Pháp không muốn Ai Cập và Thổ hợp thành một nước lớn mạnh. Quân Anh, với quân Pháp và Hy Lạp tòng chinh, lập tức xâm lăng Ai Cập. Nhận thấy người Anh và người Pháp có nhiều bất đồng và hay cạnh tranh nhau, Muhammad Ali cố gắng kéo dài thời gian cầm cự để chờ liên minh Anh - Pháp tan rã. Nhưng người Pháp nhất định liên kết với người Anh để chống lại tham vọng của ông, nên Muhammad Ali đã bị thảm bại nặng hơn.
Ngày 15 tháng 7 năm 1840, các đế quốc Anh, Áo-Hung, Nga, Phổ ký Thỏa ước Luân Đôn, công nhận gia đình Muhammad Ali được truyền đời cai trị Ai Cập và Sudan, nhưng phải rút khỏi Syria và Lebanon. Muhammad Ali không chấp nhận thỏa ước này. Hải quân Anh và Áo-Hung bèn phong tỏa bờ biển châu thổ sông Nile, dội pháo vào Beirut (11 tháng 9 năm 1840). Sau khi Acre đầu hàng ngày 3 tháng 11 năm 1840, Muhammad Ali phải chấp nhận Thỏa ước Luân Đôn ngày 27 tháng 11 năm 1840. Ông cũng phải rút quân khỏi đảo Crete và miền Hedjaz, và giảm số quân xuống còn 18.000 người.
Sau khi ông chấp nhận thỏa ước, nhà Ottoman gởi thêm vài thánh chỉ để phân định ranh giới rõ hơn. Thánh chỉ quan trọng nhất được ban ra ngày 13 tháng 2 năm 1841. Muhammad Ali được giữ bán đảo Sinai và vài nơi trong bán đảo Ả Rập.

Những năm cuối của Muhammad Ali

Thỏa ước Luân Đôn chấm dứt những cuộc chiến triền miên của thời Muhammad Ali và trước nữa. Nhưng năm 1842 Ai Cập bị ngay một mùa lũ lớn của sông Nile tàn phá. Cũng năm đó mục súc bị bệnh dịch, chết rất nhiều. Năm 1843 có nạn châu chấu phá hại mùa màng, rất nhiều người chết đói, nhiều làng mạc bị bỏ hoang.
Dân chúng cũng khổ vì cách sống khắc nghiệt trong quân ngũ. Theo như những lá thư của Florence Nightingale, cô y tá người Anh nổi tiếng, gởi từ Ai Cập vào khoảng 1849-50, nhiều nhà sợ con đi lính đến nổi làm cho mù đi một mắt hoặc làm gảy tay lọi chân. Muhammad Ali biết là dân muốn cho con trốn lính, nên lập ra những đội quân đặc biệt khuyết tật, như đội pháo binh khuyết năng, bảo rằng còn một mắt thì vẫn có thể bắn được.
Khổ nhất là những nông dân nghèo fellah bị bắt buộc phải đi xây dựng những công trình có ích cho công chúng mà không được trả lương. Một công trình lớn cuối cùng là năm 1847 Muhammad Ali đặt viên đá đầu tiên cho một chiếc cầu khổng lồ bắc qua sông Nile nơi bắt đầu vùng châu thổ.
Sau gần nửa thế kỷ cầm đầu xứ Ai Cập, vào tháng 6 năm 1848 Muhammad Ali không còn đủ minh mẫn để trị nước. Ông thôi việc triều chính và đến ngày 2 tháng 8 năm 1849 thì qua đời.

Lãnh tụ Ibrahim Pasha (1848)

Lúc Muhammad Ali già yếu thì Ibrahim Pasha trị nước thay cha nuôi. Nhà Ottoman công nhận ông là tổng đốc kể từ ngày 1 tháng 9 năm 1848. Nhưng đến ngày 10 tháng 11 năm đó thì ông qua đời, trước cả Muhammad Ali.

Lãnh tụ Abbas I (1849 - 1854)

Abbas I là con của công tử Tusun, tức là cháu gọi Ibrahim Pasha bằng bác. Từ lúc Ibrahim Pasha qua đời thì ông cầm quyền nhiếp chính, và đến khi ông nội ông là Muhammad Ali qua đời năm 1849 thì chính thức trở thành tổng đốc (wali) của Ai Cập và Sudan.
Abbas I là người ít nói, và gần như không hề ra khỏi cung điện. Ông thi hành chính sách ngược lại ông nội ông, về cả điều tốt lẫn điều xấu: ông hủy bỏ các độc quyền về buôn bán, giảm quân đội xuống còn 9.000 người, và đóng cửa các xí nghiệp cũng như các trường học.
Dưới sức ép của chính phủ Anh, ông cho phép khởi công làm đường hỏa xa nối CairoAlexandria.
Ông bị hai người nô lệ của ông giết chết vào tháng 7 năm 1854.

Lãnh tụ Sa'id Pasha (1854 - 1863)

Sa'id Pasha là người con yêu quý nhất của Muhammad Ali. Từng đi du học ở Pháp, nên ngay năm 1854 (ngày 30 tháng 11) ông đã ký giấy nhượng cho người Pháp quyền sử dụng eo đất Suez trong 99 năm [13]nhằm tiến hành đào và khai thác kênh Suez. Người đứng ra đốc thúc và chỉ huy công trình này là kỹ sư Ferdinand de Lesseps, bạn của Sa'id Pasha, từng là phó lãnh sự Pháp tại Alexandria. Người Anh tức tối dùng ảnh hưởng với nhà Ottoman ngăn cản công trình này. Đến năm 1856 nhà Ottoman mới chịu ký giấy chấp nhận.
Để xoa dịu, Sa'id Pasha cho phép công ty người Anh là Eastern Telegraph Company vào thị trường Ai Cập, và cho người Anh lập ngân hàng Bank of Egypt năm 1854.
Năm 1855, Sa'id Pasha hủy bỏ thuế Jizya với tín đồ Cơ Đốc giáo. Ít lâu sau, người Cơ Đốc giáo lại được cho phép vào phục vụ trong quân đội Ai Cập.
Sa'id Pasha là người có lòng nhân từ. Ông cố gắng bài trừ nạn săn bắt nô lệ ở Sudan, nhưng không thành công. Ông cũng lo cải thiện đời sống những người nông dân nghèo fellah. Năm 1858, ông ra luật cho các nông dân này được sở hữu vĩnh viễn các ruộng đất mà họ canh tác.
Ông cũng phát triển hạ tầng cơ sở trong nước, như cho đắp thêm đường sắt thứ nhì nối liền CairoAlexandria, mở thêm đường sắt đến hải cảng Al-Suways (Suez). [14]
Kỹ sư Ferdinand de Lesseps đứng ra vận động mở Công ty Hoàn Vũ kênh Suez nối biển (Compagnie Universelle du canal maritime de Suez), với số vốn đầu tư là 200.000.000 quan Pháp, chia làm 400.000 cổ phần giá 500 quan Pháp. Nhà nước Ai Cập bỏ vào phần hùn là 80 triệu quan Pháp. Người Pháp bỏ vào khoảng 120 triệu quan Pháp. Công ty ra đời ngày 15 tháng 12 năm 1858, với trụ sở chính ở Alexandria và trụ sở hành chính ở Paris. Trước đó, ngày 5 tháng giêng năm 1856, có thảnh chỉ quy định rằng 4/5 tổng số nhân công phải là người Ai Cập.[15] Ngày 20 tháng 7 năm 1856 lại có sắc lệnh quy định điều kiện làm việc cho các nông dân nghèo fellah tham gia đào kênh.
Ngày 25 tháng 4 năm 1859 công cuộc đào kênh Suez được bắt đầu. Nơi kênh Suez trổ ra Địa Trung Hải, một thành phố hải cảng được xây đựng lên, và được đặt tên của Sa'id Pasha: Port Said.
Người Anh, vốn đang ủng hộ một công trình đường sắt vận tải hàng hóa đi ngang Ai Cập, và nhất là không muốn người Pháp nắm một vị trí chiến lược quan trọng là kênh Suez, nên vào tháng 10 năm 1859 lại vận động nhà Ottoman ra lệnh đình chỉ công trình đào kênh. Ferdinand de Lesseps về Pháp yết kiến hoàng đế Napoléon III nhờ can thiệp. Hoàng đế này tuyên bố rằng đây chỉ là công việc chuẩn bị, chưa phải là công trình thực thụ, và người Pháp lại tiếp tục.
Năm 1862, vì thiếu nhân lực, Công ty kênh Suez đòi hỏi Sa'id Pasha phải qua hệ thống lao động cưỡng bách (corvée) cung cấp 10.000 công nhân mỗi tháng. [16]
Trong thời gian công trình đào kên Suez đang tiến hành thì Sa'id Pasha qua đời (ngày 18 tháng giêng năm 1863).

Lãnh tụ Isma'il Pasha (Isma'il Lộng lẫy) (1863-1879)


Họa đồ kênh Suez năm 1881
Isma'il Pasha là con của Ibrahim Pasha, lên nối nghiệp chú. Ông có ngoại hiệu là Isma'il Lộng lẫy, tức Isma'il the Magnificent trong tiếng Anh. Ông được nhiều huân chương danh dự do các nước ngoài như Pháp, Ý, Phổ, Hà Lan,… trao tặng.

Thực hiện kênh Suez

Người Anh thừa dịp Sa'id Pasha mất, vận động vua Thổ ra lệnh ngưng đào kênh Suez. Ngày 6 tháng 4 năm 1863, vua Thổ là Abdul Aziz đặt điều kiện là phải bãi bỏ lao động cưỡng bách và vùng kênh đào Suez phải trung lập. Ngày 6 tháng 7 năm 1864, hoàng đế Pháp là Napoléon III với tư cách là trọng tài được mọi bên chấp nhận, bắt buộc nhà nước Ai Cập phải bồi thường Công ty Suez 84.000.000 quan Pháp, trong đó 38.000.000 vì lý do ngưng cung cấp phu lao động cưỡng bách. [17] Công ty đưa một số máy móc vào thay sức nhân công bị thiếu hụt. Bị khá nhiều trắc trở, nhưng công cuộc đào kênh Suez vẫn tiến hành, và đưa đến sự xây dựng một thành phố mới, ở đoạn giữa kênh Suez, được đặt tên của Isma'il Pasha: Ismailia.
Trong hai tháng 6 và 7 năm 1865, một trận dịch tả lan ra ở vùng kênh Suez, khiến những dân phu đi đào kênh bị chết hại rất nhiều. Cuối cùng, kênh Suez được khánh thành ngày 17 tháng 11 năm 1869, có mặt hoàng hậu Eugénie của Pháp và chính khách từ nhiều nước được Isma'il Pasha mời tới.

Các cải cách

Cuộc nội chiến Hoa Kỳ (1861 - 1865) làm giá bông vải tăng vọt (miền nam Hoa Kỳ vốn có rất nhiều đồn điền bông vải), khiến cho nhà nước Ai Cập được khá nhiều lợi nhuận từ bông vải vào đầu đời Isma'il Pasha. Nguồn lợi này khiến cho Isma'il Pasha bồi thường Công ty Suez dễ dàng hơn, và tiến hành nhiều cải cách. Ông tái lập và cải thiện hệ thống hành chính của Muhammad Ali, vốn đã bị phá hỏng bởi Abbas I. Năm 1865 ông lập nhà bưu điện Ai Cập (Ai Cập đã có hệ thống bưu chính thời khalip Mu'Awiya I (661 - 680)). Ông tái tổ chức các trường võ bị của Muhammad Ali Pasha lập ra, và nâng số quân lên đến 94.000 năm 1874. Ông cũng ủng hộ ngành giáo dục đôi chút. Ông thuê các công ty giỏi nhất châu Âu làm đường hỏa xa, hệ thống điện báo, các hải đăng, con đê chặn sóng của Alexandria. Ông cho mở mang thủ đô Cairo rộng lớn thêm và cho xây gán vào Cairo một thành phố ở tả ngạn sông Nin theo kiểu mẫu thành phố Paris.
Isma'il Pasha cũng tiếp tục đường lối cố gắng bài trừ tệ nạn buôn bán nô lệ của Sa'id Pasha.

Quy chế nối nghiệp và tước hiệu

Năm 1866 ông được vua Thổ Nhĩ Kỳ chấp thuận thay đổi quy chế nối nghiệp. Trước nay, theo luật Thổ Nhĩ Kỳ, người nối nghiệp phải là người đàn ông có tuổi nhất trong gia đình, cho nên đã có trường hợp Sa'id Pasha là chú nhưng sinh sau (1822) phải lên nắm quyền sau cháu là Abbas I, sinh năm 1813. Đổi lấy số tiền nộp cống tăng lên gần gấp đôi, từ giờ trở đi quyền nối nghiệp trở thành ưu tiên cho con trai trưởng.
Năm 1867 Isma'il Pasha lại được nhà Ottoman nhìn nhận là khedive (chúa). Trước nay, những người tiền nhiệm của ông, kể từ Muhammad Ali Pasha chỉ tiếm xưng chức này, nhưng không được nhà Ottoman công nhận - mặc dù họ lại ít lệ thuộc vào nhà Ottoman hơn ông.
Năm 1873 lại có thánh chỉ nhà Ottoman nhìn nhận thêm nhiều đặc quyền của các khedive Ai Cập.

Nợ nần và thuế khóa

Từ khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ chấm dứt, giá bông vải tụt xuống dần, khiến nhà nước Ai Cập gặp nhiều khó khăn về tài chính. Isma'il Pasha lại sống phô trương, xa hoa lộng lẫy, xây cất nhiều cung điện, nên chính quyền đánh thuế dân rất nhiều.
Về điều kiện sống của người dân, trong “Những lá thư cuối cùng từ Ai Cập”, Duff Gordon phu nhân đã kể:
Tôi không thể tả được cái nghèo ở đây bây giờ với mỗi ngày thêm vài thứ thuế mới. Mỗi con vật, lạc đà, bò, cừu, lừa và ngựa đều có khoản thuế. Người nông dân nghèo fellah không còn được ăn bánh mì nữa, họ sống nhờ ăn cháo lúa mạch, rau sống,… Sưu thuế làm cho người ta không sống nổi: một thứ thuế cho mỗi loại ngũ cốc, cho mỗi loại súc vật, và lại đánh thuế lần nữa khi bán ở chợ; trên mỗi người, trên than, trên bơ, trên muối … Dân chúng ở miền Thượng Ai Cập bỏ xứ mà đi hàng đoàn, vì không còn trả nổi thuế, không còn làm nổi công việc bị cưỡng bách. Ngay ở đây (Cairo), những vụ đánh đập để lấy thuế hàng năm thật là đáng sợ.[18]

Bành trướng ở phương nam

Trước đó, năm 1865, Isma'il Pasha được nhà Ottoman ban cho tỉnh Habesh (Abyssinia), bấy giờ là một dải đất duyên hải hẹp kề cận nước Ethiopia. Từ vùng đất này, Isma'il Pasha mở rộng địa bàn, lấn sâu vào đất của hoàng đế Yohannes IV của Ethiopia (1872 - 1889), lập những đồn điền bông vải rộng bao la.
Phía tây nam, năm 1874 ông chiếm vùng Darfur ở tây bộ Sudan.
Nhưng đến tháng 11 năm 1875 quân ông bị quân Ethiopia đánh tan tác tại trận Gundet. Tháng 3 năm 1876 quân ông lại bị quân hoàng đế Yohannes IV của Ethiopia đánh bại tại trận Gura', con ông là Hassan bị bắt, sau đó phải chuộc bằng một món tiền khổng lồ.

Kiệt quệ tài chính

Tiền nợ của chính phủ Ai Cập, từ 3.000.000 bảng Anh năm 1863, tăng nhanh đến 100.000.000 bảng Anh năm 1874. [19] Năm 1875, sự sản xuất trong nước không còn đủ cung cấp cho ngay cả những nhu cầu cấp bách nhất của bộ máy hành chính. Isma'il Pasha cũng đã nhiều lần thất hứa trong hạn kỳ trả nợ, nên không còn vay mượn gì được ở thị trường châu Âu nữa. Sưu thuế bấy giờ thường thu trước nhiều tháng. Số nợ khổng lồ lại tăng nhanh. Isma'il Pasha đành phải bán cho chính phủ Anh 176.602 cổ phần công ty Suez với giá 976.582 Anh kim ngày 25 tháng 11 năm 1875.
Người Anh và Pháp sợ những món tiền đầu tư kếch sù của họ ở Ai Cập bị tan thành mây khói, nên lập hệ thống "Kiểm soát song phương" để kềm chế một số thất thoát tài chính trong chính phủ Ai Cập.
Năm 1877, mực nước sông Nin quá thấp, không đủ cung cấp cho các ruộng nương, vườn tược, dân chúng lại khổ vì thất mùa. Năm đó Ai Cập lại phải cung cấp cho nhà Ottoman 25.000 quân và lương thảo trong cuộc Chiến tranh Nga-Thổ Nhĩ Kỳ (1877–1878). [20]
Tháng 8 năm 1878, lần đầu tiên Ai Cập lập thủ tướng theo lối Tây phương. Ông Nubar Pasha, một người thân tín của Isma'il Pasha, trở thành vị thủ tướng đầu tiên. Tháng 9 năm 1878, cuộc “Kiểm soát song phương” được thay thế bằng sự có mặt của hai bộ trưởng người nước ngoài trong nội các vừa thành lập của Ai Cập: ông Charles Rivers Wilson, người Anh, giữ chức bộ trưởng tài chính; ông Ernest-Gabriel de Blignières, người Pháp, giữ chức bộ trưởng công chánh.
Isma'il Pasha không chịu được những tình trạng kiểm soát gò bó này, nên ngầm tổ chức một cuộc nổi loạn của quân đội để nắm lại trọn quyền. Người Anh và Pháp phản ứng bằng cách nhờ nhà Ottoman hạ chiếu chỉ truất phế ông ngày 26 tháng 6 năm 1879 và lập con trai trưởng của ông là Tewfik lên thay. Nằm trong thế kẹt, Isma'il Pasha rời ngôi khedive (chúa) không chút kháng cự nào.

Kiểm soát song phương (1876 - 1882)

Vào tháng 12 năm 1875, chính phủ Anh sai ông Stephen Caveđại tá John Heydon Stokes sang Ai Cập điều tra về tình hình tài chánh. Tháng 4 năm sau, ông Stephen Cave công bố một bản tường trình, cho thấy quốc gia Ai Cập sẽ không tránh khỏi bị phá sản nếu tiếp tục với đường lối hành chính này. Các cường quốc châu Âu lợi dụng nợ bắt Ai Cập nhượng thêm các đặc quyền.
Bản tường trình của ông Stephen Cave dẫn đến việc thành lập Ngân Quỹ Tiền Nợ (Caisse de la Dette) cho phép nước ngoài kiểm soát phần lớn số tiền của nhà nước Ai Cập thu vào.
Tháng 11 năm 1876, hệ thống “Kiểm soát song phương” được lập ra, qua đó một viên chức người Anh giám sát tiền thu vào và một viên chức người Pháp giám sát tiền chi ra của chính phủ Ai Cập. Sự giám sát này lại đưa đến sự quốc tế hóa đường sắt và hải cảng Alexandria. Hai viên chức, George Goschen của Anh và Edmond Joubert của Pháp phân loại các khoản nợ của nhà nước Ai Cập, và tổng kết thành một con số là 89.308.000 Anh kim, với 6.000.000 Anh kim tiền lãi mỗi năm. [21]
Năm 1877 thất mùa và phải trang trải phí tổn cho 25.000 quân giúp nhà Ottoman, nên chỉ trả tiền lãi mà chính phủ Ai Cập đã phải thâm thủng 3.440.000 Anh kim. Năm 1878 vay thêm ngân hàng Rothschild, đưa tiền nợ lên 98.378.000 Anh kim, nhưng lãi suất được giảm xuống 4%, nên chỉ còn phải trả mỗi năm 4.243.000 Anh kim. Tháng 5 năm 1878 người Anh và Pháp lại lập một hội đồng điều tra, và đưa đến sự kiểm soát tài sản riêng khổng lồ của Isma'il Pasha.
Cuộc “Kiểm soát song phương” trên danh nghĩa được chấm dứt vào tháng 9 năm 1878, khi hai ông Rivers Wilson và De Blignières vào nắm hai ghế bộ trưởng Ai Cập. Nhưng trên thực tế Ai Cập dĩ nhiên vẫn tiếp tục bị Anh và Pháp kiểm soát.
Trong giai đoạn 09/1878 đến 04/1879, quân đội Ai Cập từ con số 25.000 bị cắt giảm xuống còn 7.000, và khoảng 2.500 sĩ quan bị bớt phân nửa số lương. [22]
Sau khi Isma'il Pasha bị truất phế, cuộc “Kiểm soát song phương” lại được tái lập vào tháng 11 năm 1879. Từ lúc ấy cho đến năm 1882, sự chi thu của chính phủ Ai Cập nằm trong tay các viên chức người Anh (Evelyn Baring, rồi đến Auckland Colvin) và người Pháp (Ernest-Gabriel de Blignières) thi hành “Kiểm soát song phương”.

Lãnh tụ Tewfik Pasha (1879 - 1892)

Lãnh tụ Tewfik Pasha kế nhiệm cha trong cảnh nước nhà phá sản, ngoại bang kiểm soát. Tuy nhiên ông cũng còn quyền và đã dùng quyền một cách sai lầm. Ông ra luật không cho phép nông dân được thăng tiến thành quan chức. Dân chúng bất bình nổi lên theo đại tá Ahmed Arabi, đưa đến sự việc năm 1882 quân Anh vào chiếm đóng Ai Cập. Năm 1884 người Anh đòi ông phải nhượng Sudan, ông buộc lòng phải chấp thuận.
Ông không hoàn toàn bị mất quyền. Vào ngày 9 tháng 6 năm 1888 ông bãi chức thủ tướng Nubar Pasha và sau đó mời Riaz Pasha về lập chính phủ.
Viên tổng lãnh sự Anh là Evelyn Baring khuyến khích ông phô trương những hoạt động trị dân của ông. Ông chăm lo việc thủy lợi, giáo dục và công lý. Lúc Alexandria bị dịch tả năm 1883, ông không sợ bệnh, đi thăm viếng, ủy lạo dân chúng. Nhờ vậy nhà Muhammad Ali tiếp tục được phần nào sự ủng hộ của người dân.

Ai Cập bị chiếm đóng bởi người Anh (1882 - 1936)

Cuộc khởi nghĩa của Ahmad Arabi (1881 - 1882)

Cuộc “Kiểm soát song phương” làm cho tinh thần quốc gia ở Ai Cập ngày càng dâng cao. Các nhóm ái quốc Ai Cập viết những vở tuồng, những bài báo đòi độc lập và một chế độ có hiến pháp. Nhiều người ảnh hưởng tư tưởng của ông Jamal al-Din al-Afghani, kêu gọi tín đồ Hồi giáo đoàn kết chống lại thực dân châu Âu.
Năm 1881 đại tá Ahmad Arabi (cũng viết là Urabi, hay Anh hóa là Orapy,…) dấy quân chống lại bộ trưởng Bộ Chiến tranh, rồi tiếp đến chống lại Tewfik Pasha. Ông đòi hỏi lập hiến pháp qua bầu cử của đại chúng, và tăng thêm ngân sách cho quân đội. Các phe nhóm yêu nước theo ông rất đông, trong đó có nhiều người Copt theo Cơ Đốc giáo. Đầu năm 1882 họ nắm nội các và quân đội. Những cuộc phiến loạn nổ ra ở các thành phố hải cảng.
Từ thời Sa'id Pasha và Isma'il Pasha, người Ai Cập dần dần được có chức vụ trong quân đội. Các sĩ quan Ai Cập lập các bang, hội kín để chống lại sự kỳ thị chủng tộc, ưu đãi các sĩ quan người Thổ Nhĩ Kỳ và người Circassian, có đặc quyền từ nhà Ottoman và nhà Mamluk. Các nhóm này nay trút cơn giận của họ lên người Thổ Nhĩ Kỳ, người Circassian, người Âu rồi luôn cả tín đồ Cơ Đốc giáo người Ai Cập.
Trước tình thế này, vào tháng 5 người Anh và Pháp cho tàu chiến đến phong tỏa hải cảng Alexandria. Điều này khiến tình hình căng thẳng thêm. Hơn 100 người nước ngoài bị giết. Ngày 11 tháng 7 năm 1882, tàu chiến Anh nã pháo vào Alexandria. Các đại sứ hội nghị ở Constantinopolis, nhà Ottoman được mời đem quân vào bình định Ai Cập, nhưng họ từ chối. Chính phủ Anh mời Pháp cộng tác để chiếm đóng Ai Cập. Pháp từ chối. Anh mời Ý, Ý lại cũng từ chối.
Tháng 8 năm 1882, quân Anh đổ bộ Ai Cập qua ngã các thành phố Port Said, SuezIsmailia bên kênh Suez. Người Ai Cập đánh lui được quân Anh tại trận Kafr-el-Dawwar, nhưng ngày 13 tháng 9 năm 1882 bị thua trận đánh quyết định Tel el-Kebir.
Ahmad Arabi bị bắt tại Cairo, Egypt, và xử án ngày 3 tháng 12. Ông bị kết án tử hình nhưng được giảm xuống lưu đày sang Tích Lan. Đến tháng 5 năm 1901 thì ông được khedive (chúa) Abbas II ân xá và trở về Ai Cập.

Thời kỳ trước Bảo Hộ (1882 - 1914)

Người Anh lập lại Tewfik Pasha. Có lẽ ban đầu họ không muốn ở lâu, nhưng thấy tình hình tài chính trong nước cần nhiều sửa đổi dài hạn nên đã đổi ý. Mặc dù có thực quyền nhưng trên danh nghĩa họ vẫn coi Ai Cập là đất của nhà Ottoman.
Ngày 29 tháng 10 năm 1888, Hiệp định Constantinople (Convention of Constantinople) được ký kết giữa các nước Anh, Áo-Hung, Đức, Hà Lan, Nga, Pháp, Tây Ban Nha, và Thổ Nhĩ Kỳ quy định rằng kênh Suez trung lập, ai cũng có quyền đi qua, trong thời bình cũng như thời chiến, nhưng cũng công nhận quyền của các khedive (chúa) Ai Cập được có những biện pháp để giữ nước hoặc giữ vững trị an.
Ngày 7 tháng 1 năm 1892, Tewfik Pasha qua đời. Con trưởng là Abbas II nối ngôi.
Tháng giêng năm 1894, sau khi bị người Anh ép buộc phải rút lại một lời phê bình quân Ai Cập do tướng Anh là Herbert Kitchener điều khiển, Abbas II bèn bí mật thành lập và yểm trợ phong trào quốc gia do ông Mustafa Kamil cầm đầu.
Cuối thế kỷ 19, đế quốc Pháp bành trướng thành đế quốc có lãnh thổ rộng lớn nhất châu Phi. Năm 1898, họ muốn được người Anh nhượng quyền tại SudanAi Cập nên đưa quân đến Fashoda (cách Khartoum khoảng 650 km về phía nam). Việc này đưa đến cuộc khủng hoảng Fashoda. Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1898, quân Pháp và Anh ở trong tình trạng sẵn sàng giao chiến. Rốt cuộc, người Pháp rút lui, chiến tranh không xảy ra giữa Pháp và Anh.
Khi tướng Anh là Herbert Kitchener đối thoại với tướng Pháp là Jean-Baptiste Marchand tại Fashoda, ông đã nói đại ý rằng “tôi giữ đất Fashoda nhân danh nhà Ottoman và khedive của Ai Cập”. Điều này cho thấy người Anh cũng còn tôn trọng nhà Ottoman và nhà Muhammad Ali phần nào.
Ngày 8 tháng 4 năm 1904, người Pháp ký tại Luân Đôn một thỏa ước cam kết rằng họ sẽ không cản trở cuộc cai trị của người Anh tại Ai Cập, và cũng không yêu cầu Anh rút khỏi Ai Cập. Qua thỏa ước này, người Anh cũng để cho Pháp rảnh tay củng cố thế lực ở các thuộc địa hoặc các vùng ảnh hưởng khác.
Năm 1906, có sự kiện Denshawai (the Denshawai incident), dân làng Denshawai bị sĩ quan Anh và pháp lý Anh ức hiếp, khiến cho sự uất ức và tinh thần quốc gia của người Ai Cập tăng cao. Nhưng trong lúc nhất thời, người Ai Cập không ngăn được người Anh tiến thêm một bước, đổi Ai Cập thành đất bảo hộ của Anh.

Thời kỳ Bảo Hộ (1914 - 1922)

Ngày 28 tháng 6 năm 1914, Thế chiến thứ nhất bùng nổ. Tháng 10 năm 1914, đế quốc Ottoman theo Liên minh trung tâm đánh phe Entente của vương quốc Anh. Người Anh bèn tuyên bố Ai Cập là đất Bảo Hộ của Anh, và không còn là đất của nhà Ottoman nữa. Ngày 19 tháng 12 năm đó, người Anh phế khedive (chúa) Abbas II, lập chú ông là Husayn Kamil, lại cho Husayn Kamil xưng là sultan (Hồi vương), ngang với các lãnh tụ nhà Ottoman.
Người Anh cũng không còn tôn trọng sự trung lập của kênh Suez ký kết trong Hiệp định Constantinople năm 1888. Họ cấm các tàu thuyền của Liên minh trung tâm đi qua kênh này. Năm 1915, quân Ottoman từ bán đảo Sinai đánh vào kênh Suez, nhưng bị quân Anh đẩy lui.
Năm 1917, từ Ai Cập, quân Anh liên tiếp thắng quân Ottoman, lần lượt chiếm Gaza, Jerusalem. Năm 1918, họ lại thắng và chiếm Damascus, Beirut, và Aleppo.
Ngày 9 tháng 10 năm 1917, sultan Husayn Kamil qua đời. Con trai độc nhất của ông là Kamal al-Din Husayn nhất định không chịu nối ngôi khi thực quyền còn trong tay người Anh, nên em trai ông là Fuad I lên thay.
Cuối năm 1918, Thế chiến thứ nhất chấm dứt. Những người Ai Cập yêu nước giờ đã quy tụ khá đông quanh đảng Wafd do ông Saad Zaghlul lãnh đạo. Đầu tháng 3 năm 1919, người Anh bắt ông Saad Zaghlul và một số cộng tác viên đem an trí ở đảo Malta. Người Ai Cập phản ứng ngày 8 tháng 3, họ phát động cuộc cách mạng Ai Cập năm 1919 (Egyptian Revolution of 1919), một cuộc tranh đấu bất bạo động, bất hợp tác với chính quyền Anh. Trong mấy tuần, cho đến tháng tư năm 1919, những vụ đình côngbiểu tình được tiến hành khắp nơi trong nước. Sinh viên, công chức, doanh nhân, nông dân, công nhân, tu sĩ, phụ nữ, tín đồ Cơ Đốc giáo lẫn tín đồ Hồi giáo đều tham gia cuộc cách mạng này.

Những phụ nữ yêu nước biểu tình tại Cairo, 1919.
Theo tờ New York Times số ra ngày 25 tháng 7 năm 1919, con số tử vong của người Ai Cập trong cuộc cách mạng cho đến lúc ấy là 800 người, và số bị thương là 1600 người.[23]
Người Anh nhượng bộ, thả ông Saad Zaghlul về nước ngày 7 tháng 4 năm 1919. Họ cũng chấp thuận cho phái đoàn của đảng Wafd tham dự hội nghị hoà bình Versailles ở Pháp. Ngày 11 tháng 4 năm 1919, phái đoàn đảng Wafd đến Versailles điều đình đòi người Anh trả độc lập cho Ai Cập. Sự yêu cầu của họ đã bị từ khước. Tại đấy, Hoa Kỳ, nước mạnh bậc nhất sau thế chiến, khăng khăng ủng hộ Anh tiếp tục chiếm giữ Ai Cập.
Tháng 11 năm 1919, nước Anh cử hội đồng Milner (the Milner Commission) sang Ai Cập để giải quyết tình hình. Năm 1920, tử tước Alfred Milner đưa bản tường trình lên bộ trưởng ngoại vụ là hầu tước George Curzon, đề nghị rằng phải đổi quy chế bảo hộ thành một thỏa ước liên kết với Ai Cập. Hầu tước Curzon bèn chấp thuận tiếp kiến phái đoàn của ông Saad Zaghlul và hoàng thân Adli Pasha. Phái đoàn này đến Luân Đôn vào tháng 6 năm 1920 và thỏa thuận được đúc kết vào tháng 8 năm 1920. Vào tháng 2 năm 1921, nghị viện Anh phê chuẩn đồng ý thỏa thuận này và đòi hỏi Ai Cập gởi đến một phái đoàn có toàn quyền để ký một thỏa ước dứt khoát. Tháng 6 năm 1921, Adli Pasha cầm đầu phái đoàn Ai Cập đến Anh quốc. Nhưng, trong hội nghị đế quốc (Imperial Conference) tại Luân Đôn năm 1921, các đại biểu của “đế quyền” (Dominion) nhấn mạnh rằng Anh quốc phải nắm quyền kiểm soát vùng kênh Suez. Do đó bộ trưởng Curzon không thuyết phục được nội các chấp nhận các điều kiện mà Adli Pasha sẵn sàng ký kết. Cho nên phái đoàn ông Adli thất vọng trở về.
Sự chống đối gia tăng của người Ai Cập đưa đến sự ban hành thiết quân luật của chính quyền Anh tại Cairo vào tháng 12 năm 1921. Họ lại bắt ông Saad Zaghlul đem an trí ở Aden, rồi ở đảo Seychelles năm 1921. Người Ai Cập phản đối, và mãnh liệt hơn tại các vùng thôn quê. Họ tấn công vào các thiết bị quân sự, dân sự và nhân viên người Anh. Những phản đối này khiến Luân Đôn đã ký tuyên bố Ai Cập độc lập ngày 22 tháng 2 năm 1922.

Thời kỳ sau Bảo Hộ (1922 - 1936)

Ngày 16 tháng 3 năm 1922, Fuad I cải hiệu, không xưng là sultan nữa, mà xưng là vua của Ai Cập và Sudan, kèm thêm tước hiệu quân vương (sovereign) của Nubia, KordofanDarfur - là những xứ nằm trong địa phận Sudan ngày nay.
Tuy tiếng là độc lập, nhưng Ai Cập vẫn còn bị người Anh thao túng khá nhiều về chính trị, hành chính, thuế vụ, và các cải cách. Ngoài ra, quân Anh vẫn trấn giữ kênh Suez, Sudan và các thuộc địa khác của Ai Cập. Và quân Anh vẫn chưa rút khỏi Ai Cập.
Ngày 19 tháng 4 năm 1923 Ai Cập theo một hiến pháp mới, do đảng Wafd soạn thảo, quy định vua có quyền cao nhất, được các bộ trưởng phụ tá trong việc trị nước, nhưng cũng bị chia quyền bởi hai nghị viện, đảm trách bàn thảo và ban hành luật lệ. Ngày 16 tháng 1 năm 1924 nhà cách mạng Saad Zaghlul trở thành vị thủ tướng được dân bầu cử đầu tiên trong lịch sử Ai Cập. Quần chúng coi ông là vị anh hùng dân tộc.[24] Nhưng ông chỉ ở tại chức không đầy 1 năm. Sau khi ông Lee Stack, toàn quyền (governor-general) Sudan bị ám sát, và các đòi hỏi của người Anh mà ông thấy không thể chấp nhận, ông từ chức ngày 24 tháng 11 năm 1924.

Nhà cách mạng Saad Zaghlul
Chính sự Ai Cập sau đó gặp nhiều rối ren, như năm 1928 quốc hội bị giải tán, và một phần của hiến pháp không còn được tôn trọng. Năm ấy, Hasan al Banna lập phong trào Anh em Hồi giáo (Muslim brotherhood) chống lại đảng Wafd và xu hướng theo Âu tây trong xã hội. Năm sau, lại có Ahmad Husayn lập phong trào “Misr-al-Fatat” (Ai Cập trẻ). Ngày 4 tháng 10 năm 1929, thủ tướng Muhammad Mahmoud Pasha thoái chức, tòng nam tước Percy Lyham Loraine giữ chức toàn quyền (Governor General) Ai Cập trong 2 tháng, trước khi Ai Cập chọn được một thủ tướng khác. Năm 1931, đảng Wafd tẩy chay bầu cử, đảng Al-Sha'ab (đảng Nhân Dân) lên nắm chính quyền. Từ năm 1933 đến năm 1936, vua Fuad I đích thân trị nước. Trong thời gian này, nhờ có những nhân vật uy tín như ông Sarwat Pasha hay ông Adli Pasha trở lại đảm trách chức thủ tướng, nên Ai Cập cũng được khá vững mạnh, để tiến đến việc đòi lại độc lập toàn vẹn.
Ngày 28 tháng 4 năm 1936, vua Fuad I qua đời. Hoàng tử Farouk, 16 tuổi, lên nối ngôi, thành vua Farouk I. Triều đình lập Hội Đồng Nhiếp Chính do Hoàng tử Muhammad Ali Tewfik làm chủ tịch trong thời gian vua Farouk I được coi là chưa trưởng thành.
Năm 1936 hiến pháp được tái lập. Cả nước bầu cử, đảng Wafd trở lại nắm chính quyền. Ông Mustafa el-Nahhas, một chiến hữu từng bị lưu đày sang Seychelles cùng với nhà cách mạng Saad Zaghlul, cũng từng là thủ tướng năm 1928 và 1930, trở lại làm thủ tướng Ai Cập. Ngày 26 tháng 8 năm 1936, chính phủ Ai Cập và chính phủ Anh ký hiệp ước Anh - Ai Cập 1936: Anh rút hết quân khỏi Ai Cập, chỉ còn đóng ở vùng kênh đào Suez.

Vua Farouk I (1936 - 1952) và Fuad II (1952 - 1953)

Thời kỳ trước Đệ Nhị Thế Chiến (1936 - 1939)

Hiệp ước Anh - Ai Cập 1936 cũng quy định rằng Anh huấn luyện quân đội và cung cấp quân nhu cho Ai Cập, đồng thời sẽ cứu viện nếu Ai Cập bị xâm lăng. Ai Cập lúc ấy cảm thấy bị đe dọa bởi vương quốc Ý, đang bành trướng ở Ethiopia mặt nam và ở Libya phía tây.
Vua Farouk I vào lúc đầu, nhờ có mẹ là người bản xứ, và nhờ Anh rút quân, nên khá được lòng dân. Nhưng ông sống xa xỉ, hay đi Âu châu mua sắm, nên lần hồi mất lòng dân.

Trong Đệ nhị thế chiến (1939 - 1945)

Khi tình hình châu Âu căng thẳng, người Anh đã mượn đất Ai Cập làm căn cứ đóng quân và lập “Quân khu Trung Đông” có trụ sở tại Cairo vào tháng 6 năm 1939. [25]
Nhưng năm 1940, vua Farouk I lại từ khước không chịu tuyên chiến với phe Trục. Đảng Wafd thì tuyên bố chống lại chủ thuyết Nazi của Adolf Hitler. Từ ngày 9 đến 16 tháng 9 năm 1940, quân Ý đến xâm lăng Ai Cập, nhưng bị liên quân Anh và Pháp Tự do đánh bại. Đặc biệt trong lúc quân Ý nã pháo vào Alexandria, cả thành phố cúp điện, thì cung vua Farouk I vẫn mở đèn sáng choang, khiến nhân dân nhiều người chua chát.
Quân Anh đóng tại Ai Cập, thống lĩnh bởi các tướng Archibald Wavell, đến Claude Auchinleck, rồi Bernard Montgomery thường dựa vào Ai Cập để chống với quân Trục ở Bắc Phi. Nói đến Đệ nhị thế chiến tại Ai Cập, người ta thường nhắc đến hai trận El Alamein, với trận thứ nhì được coi là bước ngoặt của Thế chiến, đưa phe Đồng Minh sang thế thượng phong.
Tháng 2 năm 1942, người Anh buộc Ai Cập phải được cầm quyền bởi đảng Wafd. Một lần nữa, ông Mustafa el-Nahhas trở lại làm thủ tướng, cho đến khi bị vua Farouk I cách chức vào tháng 10 năm 1944. Ahmad Mahir Pasha lên thay, cực lực chống lại tổ chức Anh em Hồi giáo, và đã tuyên bố một fatwa (sắc dụ) chống lại tổ chức này. Tháng 1 năm 1945, Ahmad Mahir Pasha nhân danh Ai Cập tuyên chiến với Đức và Nhật. Ngày 24 tháng 2, ông bị một thanh niên 28 tuổi giết chết tại quốc hội vì lời tuyên chiến này.

Sau Đệ nhị thế chiến (1945 - 1952)

Người thủ tướng kế nhiệm là Mahmoud an-Nukrashi Pasha bị một thành viên của tổ chức Anh em Muslim giết tại văn phòng năm 1948.
Năm ấy, nước Do Thái được tái lập. Để bảo vệ người Ả Rập sinh sống trên đất Palestine bị người Do Thái giành đất, 5 nước tộc Ả Rập là Ai Cập, Liban, Jordan, SyriaIraq hợp binh quyết diệt nước Do Thái. Cuộc chiến kéo dài đến năm 1949, Do Thái giữ được nước. Người Ả Rập coi đó là một sỉ nhục lớn của dân tộc. Họ quy lỗi cho sự bất tài của các chính quyền, và ảnh hưởng của người Âu. Năm 1948 đại tá Gamal Abdel Nasser lập Phong trào Công chức Tự do nhằm lật đổ hoàng gia và đuổi các cố vấn Anh. Phong trào này thực hiện được Cuộc cách mạng năm 1952, buộc vua Farouk I thoái vị và nhường ngôi cho con là Fuad II. Ngày 18 tháng 6 năm 1953, chế độ quân chủ bị bãi bỏ, Ai Cập được tuyên bố trở thành một nước cộng hoà. Nhà Muhammad Ali chính thức cáo chung.

Kết quả của cuộc canh tân

Nước Ai Cập ở gần châu Âu, và có nhiều qua lại tiếp xúc với người Âu, nên dễ nhận thức được sự tiến bộ của các nước châu Âu thời cận đại. Chính các lãnh tụ, từ Muhammad Ali Pasha cho đến Isma'il Pasha, đã tích cực canh tân, và mở rộng cửa cho các công ty, tập đoàn kỹ nghệ người Âu vào làm việc tại Ai Cập. Do đó có lẽ không có nổi tiếc nuối của người đời sau về trường hợp của một Nguyễn Trường Tộ Ai Cập bị chê cười bác bỏ về những điều tai nghe mắt thấy, về những đề nghị canh tân đất nước.
Tuy nhiên, mặc dù đã có thực hiện canh tân, nhưng cuộc canh tân của nhà Muhammad Ali đã không đem lại mấy hạnh phúc cho người dân, và không cứu được nước Ai Cập khỏi bị nước ngoài vào cai trị.
Khi canh tân, các lãnh tụ đã dùng sức dân nhiều quá, khiến tiềm năng phát triển đất nước bị suy yếu. Trong gần 150 năm thời nhà Muhammad Ali, người Ai Cập hình như không lập được một xí nghiệp kỹ nghệ nào có tầm cỡ lớn, được thế giới biết đến, như Matsushita trong ngành điện tử của Nhật, hay Tata Steel trong ngành luyện thép của Ấn Độ.
Và trong thời này, nền giáo dục và nghiên cứu Ai Cập cũng không đào tạo được một tên tuổi lớn về khoa học kỹ thuật nào, dù là từ cộng đồng Hồi giáo chiếm đa số, hay là từ các cộng đồng thiểu số là Cơ Đốc giáoDo Thái giáo. Nhà khoa học Ai Cập Moustafa Mosharafa (1898-1950), được Albert Einstein coi là một trong những nhà vật lý học giỏi nhất thời đó - nhưng ít ai biết đến vì không có phát minh, lập thuyết nào nổi bật - chỉ học ở Ai Cập hết bậc trung học, rồi tiếp tục cấp đại học ở Anh. Trong khi đó, tại một xứ canh tân trễ hơn là Nhật Bản, Hideki Yukawa, học đại học tại nước nhà, đã viết thuyết meson (nguyên tử học) năm 1935 và được trao giải Nobel năm 1949. Trường hợp khác, như tại Ấn Độ, Satyendra Nath Bose, được biết đến qua luật phân bố Bose-Einstein về photonnguyên tử (1920-1924) chẳng hạn, đã được đào tạo tại các trường đại học ở CalcuttaDhaka (trên tiểu lục địa Ấn Độ) của chính quyền thực dân Anh. Nhà bác học Ấn Độ C.V. Raman, được trao giải Nobel về vật lý năm 1930, cũng đã học đại học tại Madras và nghiên cứu tại đại học Calcutta.
Nhìn lại dĩ vãng, khoa học kỹ thuật tại Ai Cập vẫn từng đứng hàng đầu thế giới từ thời cổ đại cho đến đầu thời nhà Mamluk (1260 - 1517). Nhưng có lẽ vì các lãnh tụ nhà Muhammad Ali không triệt để khuyến khích các ngành nghiên cứu, không phát triển các trường đại học đúng mức, cho nên khoa học kỹ thuật tại Ai Cập đã không được “thức giấc”. Năm 1875, ngoại trừ các viện đại học tôn giáo, Ai Cập chỉ có 7 trường đại học hoặc trường chuyên môn, với 69 giáo sư và 356 sinh viên, và 7 trường này đều ở tại thủ phủ Cairo [26]. Cũng có nhiều lý do khác, khó đề cập hết trong phạm vi của bài, khiến cho Ai Cập tiếp tục bị chậm trễ sau thời canh tân này.

Quá trình nhân khẩu học

Dân số Ai Câp được ước lượng khoảng 4 triệu vào năm 1805 [27] và bắt đầu tăng nhanh vào thập niên 1840. Cuộc thống kê dân số theo phương pháp hiện đại được thực hiện năm 1897, đưa ra con số 9 734 405 người.
Dân số Ai Cập lên đến hơn 14 triệu vào năm 1927 và 19 triệu vào năm 1947, trong đó số người hoạt động chiếm khoảng 35% [28]. Nhìn chung, dân số Ai Cập đã tăng khoảng gấp 5, nhưng sự gia tăng đó lại cũng rất chậm so với giai đoạn 1950 - 2000, vì trong giai đoạn ngắn ngủi này họ đã đông thêm gần gấp 4 lần.

Chú thích

  1. ^ Les grandes dates de l'Islam, tr. 155.
  2. ^ Quid 1990, Dominique et Michèle Frémy, tr. 924.
  3. ^ Les grandes dates de l'Islam, tr. 155.
  4. ^ Les grandes dates de l'Islam, tr. 155.
  5. ^ Champollion - Un scribe pour l'Egypte. Michel Dewachter, tr 49.
  6. ^ Champollion - Un scribe pour l'Egypte. Michel Dewachter, tr 46.
  7. ^ Champollion - Un scribe pour l'Egypte. Michel Dewachter, tr 48.
  8. ^ Champollion - Un scribe pour l'Egypte. Michel Dewachter, tr 39.
  9. ^ Champollion - Un scribe pour l'Egypte. Michel Dewachter, tr 80.
  10. ^ Champollion - Un scribe pour l'Egypte. Michel Dewachter, tr 55.
  11. ^ Champollion - Un scribe pour l'Egypte. Michel Dewachter, tr 92.
  12. ^ Egypt in the reign of Muhammad Ali, Afaf Lutfi al-Sayyid Marsot, University of Cambridge, 1983.
  13. ^ Hồ sơ lưu trữ quốc gia FONDATION NAPOLEON ET CENTRE HISTORIQUE DES ARCHIVES NATIONALES : http://www.napoleon.org/fr/salle_lecture/chronologies/files/suez.asp
  14. ^ The Middle East in the World Economy, 1800-1914, tr 123.
  15. ^ http://fr.structurae.de/projects/data/index.cfm?id=p00183
  16. ^ http://fr.structurae.de/projects/data/index.cfm?id=p00183
  17. ^ http://fr.structurae.de/projects/data/index.cfm?id=p00183
  18. ^ Nguyên văn: “I cannot describe the misery here now every day some new tax. Every beast, camel, cow, sheep, donkey and horse is made to pay. The fellaheen can no longer eat bread; they are living on barley-meal mixed with water, and raw green stuff, vetches, &c. The taxation makes life almost impossible: a tax on every crop, on every animal first, and again when it is sold in the market; on every man, on charcoal, on butter, on salt … The people in Upper Egypt are running away by wholesale, utterly unable to pay the new taxes and do the work exacted. Even here (Cairo) the beating for the years taxes is awful.”
  19. ^ http://encarta.msn.com/encyclopedia_761554408/ismail_pasha.html
  20. ^ The Middle East in the World Economy, 1800-1914, tr 132.
  21. ^ The Middle East in the World Economy, 1800-1914, tr 132.
  22. ^ The Middle East in the World Economy, 1800-1914, tr 134.
  23. ^ NY Times. 1919
  24. ^ The History of Modern Egypt, P.J. Vatikiotis, 4th ed., tr. 279.
  25. ^ History of the Second World War, United Kingdom Military Series. tr. 459
  26. ^ Les grandes dates de l'Islam, tr. 155.
  27. ^ Introduction to Social Macrodynamics: Secular Cycles and Millennial Trends in Africa. ISBN 5484005604
  28. ^ Population active et structures économiques de l'Egypte, tr 465-490.

Tham khảo

  • Vương Thuyền
  • FONDATION NAPOLEON ET CENTRE HISTORIQUE DES ARCHIVES NATIONALES : http://www.napoleon.org/fr/salle_lecture/chronologies/files/suez.asp Béatrice de Durfort, Luc Forlivesi, Philippe Feinsilber, Olivier Mevel.
  • [1] Korotayev A. and Khaltourina D.: Introduction to Social Macrodynamics: Secular Cycles and Millennial Trends in Africa.
  • 100 years of the Suez Canal, Brighton, R.E.B. Duff, Clifton Books, 1969.
  • 'Abd al-Rahman al-Jabarti's History of Egypt. 4 vols. al-Jabarti, Abd al-Rahman. 1994. T. Philipp and M. Perlmann, translators. Stuttgart: Franz Steiner Verlag. ISBN 3-515-05756-0
  • All The Pasha's Men: Mehmed Ali, his army and the making of modern Egypt. Fahmy, Khaled. New York: American University in Cairo Press 1997. ISBN 977-424-696-9
  • Champollion - Un scribe pour l'Egypte. Michel Dewachter, Editions Découvertes Gallimard, Evreux 1990. ISBN 2-07-053103-1.
  • Egypt and Cromer: A Study in Anglo-Egyptian Relations. al-Sayyid, Afaf Lutfi. London: John Murray, 1968.
  • Ferdinand de Lesseps, par Ghislain de Diesbach, Editions Perrin, 1998.
  • History of the Second World War, United Kingdom Military Series. The Mediterranean and Middle East, Volume I The Early Successes Against Italy (to tháng 5 năm 1941). Playfair, Major-General I.S.O.; with Stitt R.N., Commander G.M.S.; Molony, Brigadier C.J.C. & Toomer, Air Vice-Marshal S.E. (2004) [1st. pub. HMSO 1954]. Butler, J.R.M. ed. Naval & Military Press. ISBN 1-84574-065-3.
  • Hourani, Albert Habib. A History of the Arab Peoples. London: Faber and Faber, 2002. ISBN 0-446-39392-4
  • Les grandes dates de l'Islam, sous la direction de Robert Mantran, Editions Larousse, Paris 1990.
  • Nineteenth-Century Egyptian Population. McCarthy, J. 1976. Middle Eastern Studies 12.3: 1–39
  • Nonviolent Social Movements: A Geographical Perspective. Zunes, Stephen. Blackwell Publishing, 1999.
  • Population active et structures économiques de l'Egypte (bài viết), Mahmoud Seklani, Population (tập san), 17e Année, No. 3 (Jul. - Sep., 1962), pp. 465-490, Institut National D'Etudes Démographiques, Paris.
  • Question du Canal de Suez, Ferdinand de Lesseps, Henri Plon éditeur, Paris 1860.
  • Quid 1990 - Dominique et Michèle Frémy, Editions Robert Laffont et Société des Encyclopédies Quid, 1989.
  • Souvenirs de quarante ans, dédiés à mes enfants, par Ferdinand de Lesseps, Paris, Nouvelle Revue 1887.
  • "The era of Muhammad 'Ali Pasha, 1805-1848" by Fahmy, Khaled in The Cambridge History of Egypt: Modern Egypt, from 1517 to the end of the twentieth century. M.W. Daly, ed. Pp. 139-179, Vol. 2. Cambridge: Cambridge University Press 1998. ISBN 0-521-47211-3
  • The History of Modern Egypt: From Muhammad Ali to Mubarak. Vatikiotis, P.J. 1991. Baltimore: The Johns Hopkins University Press. ISBN 0-8018-4215-8
  • The Middle East in the World Economy, 1800-1914, by Owen, Roger. I.B.Tauris, 1993. ISBN 1850436584, 9781850436584.
  • The Population of Egypt in the Nineteenth Century. Panzac, D. 1987. Asian and African Studies 21: 11–32.

Liên kết ngoài


 +++++++++++++++++++++++++++++++++

1.4  Nghệ thuật hội họa và ướp xác Ai Cập cổ

Hội họa


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Hội hoạ Ai Cập cổ đại chủ yếu là bích hoạ, được vẽ bằng các màu như: Lam, đỏ, cam, vàng, trăng tạo cảm giác rất rực rỡ khi thương thúc tác phảm.đề tài khá phong phú song đều phục vụ cho tôn giáo của người Ai Cập cổ; cách tạo hình giống như phù điêu nhưng trau chuốt hơn tranh Ai Cập cổ chứa đựng các sự tích liên quan đến những vị thần và người sáng lập ra thế giới bằng những đường nét đơn giản, khúc chiết, màu sắc hài hoà. Nhiều bức đến nay hầu như vẫn còn nguyên vẹn sống mãi với thời gian.

Xác ướp

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
(đổi hướng từ Xác ướp Ai Cập cổ)
Bước tới: menu, tìm kiếm
Xác ướp (sˁḥ)
bằng chữ tượng hình
z
,
a
H A53
Xác ướp là thi thể một người chết được bảo quản một cách có chủ định nhằm giữ cho thi thể không bị tan rữa nhờ các chất thơm, chất liệu gỗ quan tài, môi trường yếm khí và thời gian.

Các kiểu xác ướp

Mục lục

Các xác ướp được bảo quản theo “nghi thức” có chủ định

Các xác ướp nổi tiếng nhất là những xác được ướp một cách có chủ định với mục đích bảo quản cụ thể, đặc biệt là những xác ướp Ai Cập cổ đại. Văn hóa Ai Cập tin rằng thân thể là nơi trú ngụ cho linh hồn, người Ai Cập gọi là: Ka và đó là phần chủ chốt của con người trong kiếp sau. Tại Ai Cập, xác được ướp theo cách mổ bụng, bỏ đi nhiều phần nội tạng. Sau đó thân thể được bao phủ bằng natron, để tăng tốc quá trình khử nước và ngăn chặn phân huỷ.
Tại Trung Quốc, các thân xác được bọc trong quan tài bằng cây bách và những loại thảo mộc có dược tính khác.

Các xác ướp được bảo quản tự nhiên

Các xác ướp được hình thành như là kết quả của một quá trình trong điều kiện môi trường tự nhiên, như rất lạnh (người băng Ötzi), axít (người Tollund) hay được làm khô tự nhiên đã được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Một số xác được bảo quản trong tình trạng rất tốt trong điều kiện tự nhiên và có niên đại từ thời IncaPeru.

Từ nguyên

Từ mummy trong tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Latin thời Trung Cổ là mumia, một từ mượn trong tiếng Ả Rập là từ mūmiyyah (مومية), có nghĩa "bitum". (Bởi vì da của những xác ướp không được bọc bị đen đi nên trước kia mọi người cho rằng người Ai Cập cổ đã dùng bitum trong quá trình ướp xác. Nhựa đườnghắc ín là những dạng khác của bitum.) Từ này trong tiếng Ả Rập cũng được mượn từ trong tiếng Ba Tư là từ mūmiya, có nghĩa "bitum"; nó lại liên quan tới một từ khác trong tiếng Ba Tư, mūm, có nghĩa "sáp". (Các nhà sử học Ai Cập cổ đại ghi nhận rằng người Ba Tư thỉnh thoảng ướp xác các vị vua và các nhà quý tộc trong sáp ong, dù hành động này chưa bao giờ được ghi chép tại Ai Cập.)

Các xác ướp ở Ai Cập cổ đại

Ở Ai Cập, người chết ban đầu không được ướp xác theo quy trình từng được sử dụng trong triều đại đầu tiên. Lúc đầu người chết được bỏ trong những giỏ sậy và vùi xuống cát. Cát khô nóng làm cho xác người khô đi nhanh chóng, ngăn chặn sự phân huỷ. Sau này, họ bắt đầu xây dựng những hầm mộ bằng gỗ, và những quy trình ướp xác kỹ lưỡng hơn bắt đầu được phát triển để đảm bảo rằng xác chết sẽ không bị phân huỷ ở kiếp sau. Những người được ướp xác được đặt ở nơi yên nghỉ cuối cùng theo một tập hợp những nghi thức và tục lệ.
Những cá nhân đầu tiên “được ướp xác” có niên đại từ khoảng năm 3300 TCN, dù đó không phải là những xác ướp nổi tiếng như, Rameses II hay Seti I. Xác ướp hiện vẫn chưa chính thức được biết là của ai này đang được trưng bày trong Viện bảo tàng Anh và đã được đặt tên hiệu là 'Ginger' bởi vì xác có mái tóc đỏ. Ginger được chôn trong cát nóng xa mạc, có lẽ được chồng đá lên trên để ngăn thân thể bị chó rừng xâm hại. Những điều kiện thời tiết khô và nóng, đã sấy khô và bảo quản xác. Ginger được chôn với một số chậu gốm, có lẽ trước kia để đựng thức ăn và nước uống để linh hồn sử dụng trên đường đi đến thế giới bên kia. Không có những ghi chép nào về tôn giáo ở thời đại đó, nhưng có lẽ nó cũng giống với tôn giáo về sau này ở một số điểm. Các điều kiện thời tiết xa mạc là một sự thực về cuộc sống và “cái chết”, vì thế, trong bất kỳ trường hợp nào, một số sự bảo quản thân thể có thể là tự nhiên.
Từ triều đại Ai Cập đầu tiên về sau này, những người cổ đại Ai Cập hiển nhiên tìm cách giữ gìn thể xác của người chết, nhờ thế linh hồn của họ có một thân thể hướng dẫn họ tới kiếp sau.
Người Ai Cập cũng mở rộng cả việc ướp xác cho những con vật. Những con vật linh thiêng dành cho thờ cúng như cò quăm, diều hâu, cá sấumèo được ướp xác với số lượng lên tới hàng nghìn.

Hoàn cảnh lịch sử của các xác ướp Ai Cập cổ đại

Thời tiết khô ở Ai Cập luôn góp phần giúp đỡ vào việc bảo quản các xác ướp, vì đây là một trong những vùng khô nhất thế giới. Ở thời trước khi xuất hiện các vương triều, nhiều thân thể đã trở thành các “xác ướp tự nhiên”. Những thân thể bị chôn xuống vẫn có thể được tìm thấy sau nhiều thế hệ và được bảo quản trong tình trạng tốt. Những xác khô được bảo quản tốt không phải là thứ được xã hội coi là thẩm mỹ, vì thế họ bắt đầu thay đổi lại quá trình ướp xác và quấn xác người trong những dải vải lanh rất chặt. Cùng lúc ấy, họ bắt đầu bỏ đi những phần nội tạng để đảm bảo rằng xác ướp không bị phân huỷ từ bên trong, và sẽ tiếp tục hiện diện được trước thượng đế cũng như các thế hệ tương lai. Người Ai Cập không cho đó là sự khủng khiếp hay sự rùng rợn. Cái chết cũng có nghĩa đẹp. Các xác ướp tiếp tục được chuẩn bị và quấn lại thành một gói đẹp đẽ giống như ở thời Thiên chúa giáo.

Các xác ướp Ai Cập với tư cách nghệ thuật cổ đại

Việc nghiên cứu ướp xác người với mục đích giữ gìn xác rất khác biệt so với việc nghiên cứu ướp xác với mục đích nghệ thuật. Những xác ướp ban đầu phản ánh kiểu cách của thời các triều đại. Những xác ướp sau này có thể được phân loại theo tiến trình thay đổi văn hoá khi các nước khác chinh phục Ai Cập (nghĩa là Nubia, Hy Lạp) và áp đặt một số ảnh hưởng nghệ thuật. Những xác ướp rất muộn về sau này, ở thời Rôma và Thiên chúa giáo (tới năm 250) trên thực tế có một bức tranh vẽ lại khuôn mặt lúc sống trên một vùng phẳng bên trên mặt người chết. Những xác ướp “có chân dung” đó được coi là những bức chân dung ở trình độ cao nhất thời Rôma.
  • Xem Viện bảo tàng Nghệ thuật Thủ đô (Metropolitan Museum of Art), hay tìm: Triển lãm đặc biệt về "Những khuôn năm thời cổ đại" MMoA năm 2001 (MMoA "Ancient Faces" Special exhibit 2001).

Quá trình ướp xác của người Ai Cập


Xác ướp của một con bò tại Viện bảo tảng lịch sử tự nhiên quốc gia
Những người ướp xác có trách nhiệm bảo quản xác người chết. Không chỉ làm việc dựa trên sự hiểu biết của họ về giải phẫu người, mà còn phải thjực hiện các nghi lễ theo từng giai đoạn trong quá trình ướp. Rất đáng chú ý rằng chính người Ai Cập coi việc ướp xác là linh thiêng và bí mật vì thế họ không ghi chép lại quá trình thực hiện của mình mà chỉ có những ghi chép của những người quan sát bên ngoài.
Ngay sau khi một người chết, thân thể họ nhanh chóng được đưa tới cho những người ướp xác để ngăn chặn sự thối rữa sớm. Một quá trình ướp xác tiêu biểu tốn 70 ngày trong đó những người thợ lành nghề phải chạy đua để hoàn thành xây dựng lăng mộ.
Bước đầu tiên trong quá trình ướp xác của người Ai Cập là bỏ tất cả các cơ quan nội tạng thường có xu hướng thối rữa sớm nhất. Não được lấy ra bằng cách đập vỡ xương ở cuối mũi bằng một cái đục và nhét một cái móc đặc biệt vào lỗ mũi đến tận sọ. Sau đó ngoáy cái móc để làm vỡ não. Não đã lỏng được rót ra ngoài sọ qua đường mũi bằng cách nghiêng sọ sang từng phía một.

Xác ướp một con mèo từ thời Ai Cập cổ đại tại Viện bảo tàng Louvre, Paris
Những người ướp xác cũng bỏ dạ dày, gan, phổi và ruột thông qua một vết rạch nhỏ bên trái bụng. Theo Herodotus, người rạch bụng sau đó sẽ bị đuổi ra ngoài, vì họ cho rằng thân thể con người là một vật linh thiêng vì thế việc gây hại đến nó là tội ác. Trái tim vẫn được đặt chỗ cũ bởi vì người Ai Cập cho nó là trung tâm của thể xác. Các phần nội tạng bị lấy ra từ bụng được cất vào một trong cái gọ là canopic jar (bình kín), làm theo kiểu bốn người con trai của Horus, để bảo vệ các nội tạng, và đặt nó vào trong mộ trong thời gian diễn ra nghi lễ chôn cất. Họ tin rằng người chết cũng cần nội tạng để sống ở thế giới bên kia. Bởi vì lúc ấy con người vẫn chưa biết đến chức năng của não, nên nó bị bỏ đi. Ở các triều đại sau này, những cơ quan nội tạng trong bụng được xử lý, gói lại rồi lại được nhét vào trong xác nhưng các canopic jar không được sử dụng tới vẫn được đặt vào trong mộ.
Sau đó xác được tắm bằng rượu cọ. Nhờ nồng độ cồn cao của nó, nó sẽ tiêu diệt đa số vi khuẩn đã bắt đầu sinh sôi trong xác chết ở thời gian đó.
Sau đó, mọi hơi ẩm phải bị loại trừ khỏi xác bằng cách nhét những túi lanh đựng natron (một kiểu muối có ở trên bờ Hồ Wadi Natrun) vào trong ổ bụng thông qua đường rạch. Phần còn lại của xác sau đó được phủ đầy natron và đặt ở chỗ nóng. Kết quả là xác khô đi, nhưng vẫn giữ được hình hài. Một miếng kim loại có hình Con mắt của Horus (wedjat) được đặt lên trên vết rạch ở bụng để gắn nó lại về hình thức.
Cuối cùng, xác được bọc bằng nhiều tấm vải lanh, một số tấm có gắn bùa chú để giúp người chết trên đường đi sang thế giới bên kia. Sau nhiều công đoạn bọc, xác được phủ bằng nhựa thông nóng, trước khi lại bọc tiếp. Lớp nhựa để đảm bảo các lớp lớp lanh sẽ nằm yên vị. Có lẽ nhựa được pha trộn thêm hương liệu và nhựa thơm.
Để bảo vệ xác chết tốt hơn nữa, những bùa chú được đặt ở những vị trí đặc biệt của xác giữa các lớp bọc. Chúng gồm:
  • Ankh
  • Scarab
  • Djed-Djed pillar
  • Pectoral

Những nghi lễ chôn cất của người Ai Cập

Cuối cùng xác ướp sẽ được chôn theo nhiều cách tương xứng với vị thế xã hội của người chết. Những cá nhân thuộc tầng lớp thấp chỉ được ướp xác một cách đơn giản và bỏ vào một hầm mộ sơ sài hay bên rìa của một hầm mộ lớn. Những người ở tầng lớp trên sẽ được chôn cất rất kỹ lưỡng trong hầm mộ có trang trí, dù có lẽ không phải là quan tài đá. Những người ở cấp bậc cao nhất, như các pharaon, sẽ được chôn trong quan tài nhiều lớp và quách đá, và thường được trau chuốt rất tỉ mỉ. Có lẽ lễ nghi chôn cất quan trọng nhất là lễ mở miệng. Một thầy tu chạm vào miệng xác ướp hay quan tài bằng một que móc, giả bộ mở miệng xác ướp nhờ thế xác ướp có thể thở và nói chuyện trong cuộc sống tiếp sau.

Các xác ướp ở những nền văn minh khác


Một xác ướp trưng bày ở Viện bảo tàng Anh
Một số nền văn minh cũng thực hiện nghệ thuật ướp xác.

Xác ướp Trung Quốc

Bài chi tiết: Các xác ướp Tarim
Các xác ướp Trung Quốc theo kiểu Ấn-Âu đã được tìm thấy ở lưu vực Tarim có niên đại sớm từ năm 1600 TCN và cho thấy sự tiếp xúc từ rất sớm giữa Đông và Tây. Có ý kiến cho rằng những xác ướp còn lại đó có thể là tác phẩm của những vị tổ tiên người Tochari thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu hiện vẫn đang được sử dụng tại Lưu vực Tarim (Tân CươngTrung Quốc ngày nay) đến tận thế kỷ thứ 8 (xem Con đường tơ lụa, phần nói về người Tochari).
Một xác ướp cổ được đặt tên là "người Yingpan đẹp trai" đã được tìm thấy ở tỉnh Tân Cương xa xôi phía tây bắc Trung Quốc. Theo Tân Hoa Xã, những nhà khảo cổ từ Viện khảo cổ Tân Cương đã tìm thấy xác ướp này khi họ mở một quan tài trong một nghĩa địa có niên đại từ 1.900 năm. Xác ướp có mái tóc dày màu nâu, mặt và thân teo lại, da xám và nâu. Râu, lông mày và lông mi có thể thấy rõ ràng và trang phục của xác ướp vẫn còn nguyên vẹn kể cả màu sắc sáng của chúng.
Người đàn ông này, được cho là đã sống ở thời Đông Hán (25-220), cao 1.8 mét (gần sáu feet) và có lẽ đã chết khi 25 tuổi. Quan tài của anh ta có những hình vẽ màu bên ngoài, được khám phá cùng với 150 mộ cổ có niên đại thời Đông Hán tại Yingpan gần Lop Nur ở Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương. Chiếc quan tài này cùng năm cái khác đã được chở đến Urumqi, thủ phủ vùng và được giữ trong viện, ở tình trạng đóng kín trong nhiều năm. Xác ướp được cho là rất quan trọng cho việc nghiên cứu những trao đổi kinh tế và văn hoá giữa Trung Quốc và các nước phương Tây thời trước.
"Người Yingpan đẹp trai" được cho là có thể so sánh được với "người phụ nữ đẹp Lâu Lan," một xác ướp nữ 3.800 năm tuổi được tìm thấy năm 1980 tại châu thổ Tiebanhe, khoảng 200 kilômét phía đông Yingpan. Lâu Lan là một vương quốc cổ nằm dọc theo Con đường tơ lụa Trung Quốc tại Tân Cương, khoảng 200 kilômét phía đông Yingpan.
Xác của lãnh tụ Mao Trạch Đông cũng được đem ướp và trưng bày ở Nhà kỷ niệm Mao Chủ tịchBắc Kinh.

Xác ướp Việt Nam

Tại Việt Nam có hai xác tự ướp tại chùa Đậu của hai thiền sư Vũ Khắc MinhVũ Khắc Trường từ thế kỷ 17 được tạo thành bằng cách bó sơn ta rồi quang dầu ra ngoài chính thi hài các nhà sư. Ngoài xác ướp 2 vị thiền sư trên người ta còn phát hiện nhiều xác ướp còn khá nguyên vẹn như: xác ướp vua Lê Dụ Tông ở Thanh Hoá, xác ướp Xuân Thới Thượng ở Thành phố Hồ Chí Minh, xác ướp phát hiên tại vườn đào Nhật Tân ở Hà Nội...[cần dẫn nguồn]
Gần đây hơn là Chủ tịch Hồ Chí Minh được các chuyên gia Liên Xô ướp theo phương pháp hiện đại và được bảo quản lạnh tại lăng Chủ tịch Hồ Chí MinhHà Nội. Đây là xác ướp thứ ba của các lãnh tụ cộng sản, sau Lenin (1924), và Stalin (1953).

Các xác ướp tự nhiên

Xác ướp một cách tự nhiên tương đối hiếm, vì nó yêu cầu phải có một số điều kiện đặc biệt, tuy nhiên những xác ướp này lại là một trong những xác ướp cổ nhất từng biết. Xác ướp cổ đại nổi tiếng nhất là người băng Ötzi, bị đóng băng trong một dòng sông băngÖtztal Alps khoảng năm 3300 TCN và được tìm thấy năm 1991. Một xác ướp thậm chí còn cổ hơn nhưng ở tình trạng bảo quản kém hơn được tìm thấy tại hang Spirit, Nevada năm 1940có niên đại carbon khoảng năm 7400 TCN.
Anh Quốc, Ireland, Đức, Hà LanĐan Mạch đều tìm thấy một số xác đầm lầy, xác ướp của những người bị rơi vào những đầm lầy rêu hiển nhiên là bị sát hại hay hiến tế theo nghi lễ. Trong những trường hợp đó, tính axít của nước, nhiệt độ lạnh và môi trường yếm khí đã làm da xác chết xạm lại và giữ gìn bộ xương. Các xác ướp đó được bảo vệ tốt, da và các phần nội tạng cũng như xương vẫn còn nguyên; thậm chí có thể xác định được cả bữa ăn cuối cùng của họ thông qua những thứ tìm thấy trong dạ dày.
Năm 1972, tám xác ướp được bảo quản rất tốt được tìm thấy trong một khu định cư đã bị bỏ hoang của người Inuit được gọi là Qilakitsoq, ở Greenland. "Các xác ướp Greenland" gồm một đứa trẻ sáu tháng tuổi, một đứa trẻ bốn tuổi, và sáu phụ nữ ở những độ tuổi khác nhau, và đã chết khoảng 500 năm trước. Xác của họ được ướp một cách tự nhiên ở nhiệt độ dưới không và gió khô trong hang nơi họ được tìm ra.
Một số những xác ướp được bảo quản tốt nhất có niên đại từ giai đoạn IncaPeru khoảng 500 năm trước, nơi trẻ em được đem ra hiến tế trong các nghi lễ và được đặt trên đỉnh các ngọn núi ở dãy Andes. Khí hậu lạnh và khô đã bảo quản các xác chết còn nguyên vẹn trong hàng thế kỷ.

Xác ướp ở những giai đoạn gần đây

Các xác ướp đã trở thành đối tượng được chú ý nghiên cứu nhiều ở phương Tây từ khi chúng được các nhà khảo cổ học tìm ra với số lượng lớn. Những nhà quý tộc thế kỷ 19 thường thỏa mãn nhu cầu tiêu khiển của mình bằng cách mua các xác ướp, bỏ lớp bọc ngoài và đem ra trưng bày. Việc đem ra trưng bày đã làm hủy hoại nhiều xác ướp vì chúng rất dễ bị phân hủy khi tiếp xúc với không khí.
Trong thập niên 1830 Jeremy Bentham, người sáng lập thuyết vị lợi, đã để lại những hướng dẫn trong di chúc để tạo ra một kiểu xác ướp hiện đại. Ông yêu cầu rằng thể xác mình phải được đem ra trưng bày nhằm minh họa làm cách nào sự "kinh hãi đối với giải phẫu bắt nguồn từ sự ngu dốt"; một khi đã được đem ra trưng bày và thuyết trình, ông yêu cầu rằng các phần thân thể của ông phải được giữ lại, gồm cả bộ xương (trừ xương sọ, vì ông đã có kế hoạch khác cho nó), thân thể của ông phải được mặc quần áo ông thường mặc và "ngồi trên một cái ghế tôi thường ngồi với dáng điệu lúc còn sống tôi thường ngồi khi suy nghĩ." Thân thể của ông, được lắp một cái đầu sáp vì cái đầu được chuẩn bị riêng theo yêu cầu của ông, hiện được trưng bày tại Đại học London.
Các xác ướp Ai Cập được các bảo tàng khắp thế giới săn lùng trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 và chiếm đa số trong những xác ướp được trưng bày hiện nay. Những ví dụ nổi tiếng nhất là tại Viện bảo tàng Ai CậpCairo, tại Viện bảo tàng ÄgyptischesBerlin và tại Viện bảo tàng AnhLondon. Thành phố Luxor Ai Cập cũng là nơi có Viện bảo tàng ướp xác. Những phần xác ướp còn lại được cho rằng của Ramesses I được đưa vào "Viện bảo tàng liều mạng" (Daredevil Museum) gần Thác NiagaraHoa Kỳ–biên giới Canada; những ghi chép cho thấy rằng xác ướp đó đã được bán cho một người Canada năm 1860 và được trưng bày cùng với những vật khác như một con bê hai đầu trong gần 140 năm, cho tới khi một viện bảo tàng ở Atlanta, Georgia, vốn đã thu thập được xác ướp cùng với một số đồ vật khác, xác định rằng đây là xác ướp của một nhân vật hoàng gia và trả lại nó cho Hội đồng tối cao cổ vật Ai Cập. Hiện xác ướp này được trưng bày tại Viện bảo tàng Luxor.

Xác ướp trong Viện bảo tàng Anh
Các xác ướp cũng được cho là có các tính năng y khoa, và đã được bán như dược liệu theo nhiều hình thức. Ở hình bên trái, Emad Mousa, xác ướp Ai Cập của các vị thánh bảo hộ sinh sản rất nổi tiếng trong lịch sử văn hóa Ai Cập. Tuy nhiên, chúng không được sử dụng làm nhiên liệu cho đầu máy hơi nước, ý tưởng xuất phát từ một trò đùa của Mark Twain. Dù vậy, trong Thế chiến thứ nhất, các dải lanh bọc xác ướp được đem ra chế tạo thành giấy.
Khoa học cũng đã có chú ý tới các xác ướp. Tiến sĩ Bob Brier, một nhà Ai Cập học, là nhà khoa học hiện đại đầu tiên tái tạo thành công một xác ướp theo phương pháp Ai Cập. Các xác ướp đã được sử dụng trong y khoa, để xác định mức phóng xạ mà máy chụp cắt lớp (CAT scan) có thể hoạt động mà không gây hại quá nhiều tới người sống. Trên thực tế, các xác ướp có thể được nghiên cứu mà không cần phải dỡ bỏ lớp bọc ngoài bằng cách sử dụng máy chụp cắt lớptia-X để tạo ra một bức ảnh về những gì có bên trong.
Các xác ướp rất hữu ích cho các nhà nghiên cứu sinh vật học và các nhà khảo cổ học, vì chúng cung cấp nhiều thông tin giá trị về sức khỏe và tuổi thọ của những người đó. Đặc biệt, các xác ướp đã chứng minh rằng thậm chí từ 5.000 năm trước, con người đã giống hệt với người ngày nay về giải phẫu học. Điều này có một ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu tiến trình phát triển loài người.
Các nhà khoa học quan tâm tới nhân bản vô tính (cloning) DNA của các xác ướp gần đây đã thông báo về những phát hiện ra DNA có thể nhân bản được trong một xác ướp Ai Cập có niên đại từ khoảng năm 400 TCN. Dù phân tích tóc của các xác ướp Ai Cập cổ đại từ thời cuối Middle Kingdom đã cho thấy bằng chứng của một chế độ ăn kiêng ổn định [http://www.ncbi.nlm.nih.gov/entrez/query.fcgi?cmd=Retrieve&db=pubmed&dopt=Abstract&list_uids=10091248&itool=iconabstr, Các xác ướp Ai Cập cổ đại từ khoảng năm 3200 TCN cho thấy những dấu hiệu của bệnh thiếu máu nghiêm trọng và rối loạn chức năng máu (hemolitic dosorder) [1].
Các nghệ sĩ cũng sử dụng các xác ướp vào cuối thập niên 1800, làm một kiểu sơn. Màu sơn hơi nâu được gọi là "Caput Mortum", tiếng Latin của từ "Đầu người chết", được chế tạo từ những lớp bọc xác ướp.
Năm 1975, một tổ chức bí truyền với cái tên Summum đã đưa ra "ướp xác hiện đại," một kiểu ướp xác mà Summum cho rằng sử dụng các kỹ thuật hiện đại cùng với những cách thức cổ. Summum đã được trình chiếu trên National GeographicBritish Broadcasting Corporation và thậm chí còn được đề cập tới trong cuốn sách, Nghiên cứu khoa học về các xác ướp của Arthur C. Aufderheide. Summum đã ướp xác nhiều con vật như chim, mèo và chó. Con người đã được ướp xác từ rất sớm khi họ còn đang phát triển quy trình của mình và nhiều người đã dàn xếp thoả thuận cá nhân “trước khi cần thiết”.
Tháng 3 năm 2006, xác của thầy tu Hy Lạp chính thống Vissarion Korkoliacos được tìm thấy còn nguyên vẹn trong hầm mộ của ông, sau mười lăm năm chôn cất. Sự kiện này đã gây tranh cãi giữa những người tin vào một phép lạ và những người cho rằng đó chỉ đơn thuần là một sự ướp xác tự nhiên. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học hiện nay vẫn chưa thể đưa ra kết luận và vì thế bất kỳ ý kiến tranh luận nào về việc này cũng chưa thể được coi là chân lý.

Các xác ướp trong tiểu thuyết

Trong thế kỷ 20, các phim kinh dị và các phương tiện truyền thông đại chúng khác truyền bá khái niệm về một lời nguyền gắn liền với các xác ướp. Những bộ phim thể hiện niềm tin đó gồm bộ phim năm 1932 tên The Mummy (Xác ướp) với diễn viên chính Boris Karloff, cũng như hai phiên bản khác tiếp sau, một năm 1959 và một phim khác năm 1999. Sự tin tưởng vào những lời nguyền của xác ướp nảy sinh một phần từ lời nguyền được cho là có ở bên trong lăng mộ Tutankhamun.

Các xác ướp nổi tiếng


Xác ướp pharaoh Ramesses II

Từ Ai Cập

Khác

Xem thêm

Tham khảo

Sách

  • barbra sex, Elizabeth Wayland. 1999. The Mummies of Ürümchi. 1999. London. Pan Books. Also: W. W. Norton & Company. ISBN 0-393-04521-8.
  • Budge, E.A.Wallis. 1925. The Mummy, A Handbook of Egyptian Funerary Archaeology. Dover Publ. Inc., New York, Dover Ed. 1989, (512 pgs.) ISBN 0-486-25928-5.
  • Davis-Kimball, Jeannine, with Behan, Mona. 2002. Warrior Women: An Archaeologist’s Search for History’s Hidden Heroines. Warner Books, New York. First Trade Printing, 2003. ISBN 0-446-67983-6.
  • Mallory, J. P. and Mair, Victor H. 2000. The Tarim Mummies: Ancient China and the Mystery of the Earliest Peoples from the West. Thames & Hudson. London. 2000. ISBN 0-500-05101-1.
  • Pringle, Heather. 2001. Mummy Congress: Science, Obssession, and the Everlasting Dead. Penguin Books. ISBN 0-14-028669-1.
  • Taylor, Jhomo H. 2004. Mummy: the inside story. The British Museum Press. ISBN 0-7141-1962-8.

Trên mạng

Liên kết ngoài

1.5   XEM PHIM TÀI LIỆU

10_phathienve_Ai_Cap_co_dai_phan_1


10_phathienve_ai_cap_co_dai_phan_2

+++++++++++++++++++++++++++++++++

1.6 Các phát hiện khảo cổ học .

4 phát hiện thú vị về thế giới Ai Cập cổ đại
 
(Dân trí) - Năm 2005, trong khi khai quật một ngôi mộ gần thành phố Thebes, Hy Lạp, các nhà khoa học tìm thấy một ngón chân giả rất to gắn vào chân một xác ướp. Cho đến nay nó vẫn được coi là bộ phận cơ thể giả đầu tiên trên thế giới.
Việc phát hiện ra những bình rượu trong ngôi mộ của vua Tutankhamen đã
thúc giục các nhà khoa học Tây Ban Nha tìm hiểu sở thích uống rượu của vị
vua nhỏ tuổi. Qua phân tích những vết cặn rượu còn lại trong bình, người
ta phát hiện chúng có chứa syringic acid, điều này chứng tỏ rượu được làm từ nho đỏ.
Năm 2005, trong khi khai quật một ngôi mộ gần thành phố Thebes,
Hy Lạp, các nhà khoa học tìm thấy một ngón chân giả rất to gắn
vào chân một xác ướp. Cho đến nay người ta vẫn coi đó là bộ phận
cơ thể giả đầu tiên trên thế giới.

 Một người Ai Cập đã tình nguyện hiến tặng xác ướp một em
bé 6 tuổi cho Trung tâm khoa học St. Louis vào năm 1985.
Cho đến nay, nguồn gốc và cái chết của em vẫn là một điều
bí ẩn.
Tháng 6/2007, các nhà chức trách Cairo công bố xác ướp mà
họ mới phát hiện tại "Thung lũng của các vị vua" chính là của
nữ hoàng Hatshpsut - vị pharaông nữ trị vì vào thế kỉ thứ 15.
Các nhà khoa học đã dùng phương pháp phân tích ADN để xác
định danh tính của xác ướp thuộc hoàng gia Ai Cập đầu tiên kể
từ vua Tut.
Tượng người lùn được dựng để tưởng nhớ Seneb,
một người có chiều cao khiêm tốn phục vụ vua Pepi
II. Một nghiên cứu được xuất bản tháng 12/2005 tiết
lộ rằng những người lùn, như Seneb, được kính trọng
và có vị trí cao trong xã hội Ai Cập thời cổ đại.
Năm 2006, các nhà khảo cổ phát hiện một xưởng đóng
tàu có chứa những con tàu lâu đời nhất thế giới trong
một cuộc khai quật gần biển Đỏ. Những cổ vật như tấm
ván gỗ và thùng đựng hàng có tuổi trên 4.000 năm.
Nhiều vệ tinh đã xác định được vị trí của một thành phố
 Ai Cập 1.600 tuổi. Những bức ảnh này tình cờ được chụp trong một dự án lập bản đồ các vị trí khảo cổ của
Ai Cập.


Khu vực Biển cát Lớn (Great Sand Sea) ở Đông Sahara là một
 một vùng đất sa mạc rộng 72.000 km2. Nhưng một nghiên cứu
 khí hậu mới đây lại khẳng định rằng hơn 10 nghìn năm trước,
 nơi đây thường có mưa, là một vùng đất rất trù phú và phì nhiêu.
Việc các nhà khảo cổ tìm thấy nhiều bức tranh nghệ thuật miêu tả các
 hoạt động bơi lội trong một hang động là bằng chứng cho thấy người Ai
Cập cổ đại sống tại phía tây nam Ai Cập từng rất thích bơi lội trong các
 bể bơi hơn 8000 năm trước.


Cách đây 4 năm, các nhà khảo cổ tìm thấy 3 chiếc
 quan tài trong một ngôi mộ Ai Cập 2.500 tuổi. Bên
trong một chiếc quan tài có chứa một xác ướp gần
 như còn nguyên vẹn, ngay lập tức người ta đặt cho
nó cái tên “xác ướp hoàn hảo nhất”.


Vào tháng 4/2007, các nhà chức trách Ai Cập
tuyên bố nhiều cổ vật bị đem ra khỏi nước này
 bất hợp pháp và đã yêu cầu nhiều bảo tàng trên
 thế giới trả lại, trong số những cổ vật trở về Ai
Cập có hòn đá Rosetta và tượng nửa người của
nữ hoàng Nefertiti.


Các nhà khoa học đã phát hiện ra bằng chứng cho
thấy một số khối đá dùng để xây dựng kim tự
tháp
Giza được đúc chứ không phải được cắt và
đẽo như người ta vẫn nghĩ.


Năm 2005, các nhà khoa học đã dựng lại thành công khuôn mặt đầu
tiên của vua Tut bằng công nghệ scan CT. Điều bất ngờ là khuôn mặt
 được dựng lại giống các bức chân dung vua Tut vẽ thời cổ đại một cách đáng
kinh ngạc.



Đàm Loan

Theo Religion

Nguồn :  http://dantri.com.vn/c132/s132-319070/14-phat-hien-thu-vi-ve-the-gioi-ai-cap-co-dai.htm

+++++++++++++++++++++++++++++++++

Tiết lộ khuôn mặt nữ thầy tế Ai Cập 3000 năm tuổi
(Dân trí) - Lần đầu tiên thế giới được chiêm ngưỡng khuôn mặt của Meresamun, một nữ thầy tế từng hát trong các ngôi đền của Ai Cập cổ đại hàng trăm năm trước khi Chúa giáng thế.
Bà nằm đó yên nghỉ suốt 3.000 năm qua, bên trong một quách quan tài bít kín trong hành trình đi về cõi vĩnh hằng.
Bằng máy quét, các nhà khoa học đã nhìn được bên trong quan tài và nhìn thấu các lớp vải lanh quấn quanh xác ướp của bà. Những hình ảnh không gian 3 chiều cho thấy bộ xương, khuôn mặt của Meresamun và có 2 viên đá được đặt trong hốc mắt.
Các nhà khoa học đưa quan tài nữ thầy tế vào máy scan.
Theo các nhà khoa học, Meresamun làm việc và sống trong một ngôi đền tại thành phố Thebes vào khoảng năm 800 trước Công nguyên. Tên của bà, được khắc trên quan tài, có nghĩa là: “Bà sống vì Amun” (Amun là một vị thần Ai Cập). Theo bản khắc đó, thì Meresamun là một nữ thầy tế kiêm nghệ sĩ, giữ vai trò là một “ca sĩ trong ngôi đền thờ Amun”. Meresamun cao khoảng 1m65 và qua đời ở cuối tuổi 20 hoặc đầu 30.

Lần scan đầu tiên, các nhà khoa học chỉ nhìn thấy mặt ngoài của quan tài
và đến lần scan sâu thứ 2 họ mới có thể quan sát những chi tiết trên cơ
 thể nữ thầy tế.

Nguyên nhân cái chết của Meresamun vẫn còn là một bài toán khó giải bởi bà qua đời trong tình trạng sức khỏe rất tốt. Phân tích mẫu xương cho thấy bà có chế độ dinh dưỡng và lối sống khỏe mạnh. Dù không bị sâu răng nhưng răng Meresamun đã bị mòn do thường xuyên ăn bánh mì có sạn - thời đó bột mì được nghiền bằng cối đá.


Hình ảnh không gian 3 chiều cho thấy có
2 viên đá được đặt trong hốc mắt.

Chiếc quan tài này được James Henry Breasted, người sáng lập ra Viện phương Đông (Anh), mua ở Ai Cập hồi năm 1920.

Đàm Loan
 Theo Religion

Nguồn :  http://dantri.com.vn/c132/s132-318710/tiet-lo-khuon-mat-nu-thay-te-ai-cap-3000-nam-tuoi.htm

+++++++++++++++++++++++++++++++++


Bí ẩn các nền văn minh cổ đại (kỳ 1)

03.05.2012 15:01
Nền văn minh Ai Cập cổ đại còn ẩn chứa nhiều bí ẩn đáng sợ khiến người đời sau chưa tìm ra lời giải đáp.
Những câu chuyện về xác ướp Ai Cập và những cuộc trả thù của những vị vua trong lăng mộ cổ đã và vẫn luôn là đề tài khai thác bất tận cho văn chương và phim ảnh. Và sự thật là đến ngày nay, các nhà khoa học vẫn phải đau đầu về những hiện tượng bí ẩn được cho là “Lời nguyền của Pharaoh”.


Pharaoh Tutankhamun, ông vua thiếu niên, là người đã trị vì triều đại Ai Cập trong quãng thời gian ngắn ngủi từ 1336 – 1327 trước Công nguyên. Năm 18 tuổi, Tutankhamun đột ngột qua đời một cách bí ẩn và không ai biết lý do vì sao vị vua trẻ lại băng hà. Có giả thuyết còn cho rằng Tutankhamun bị ám sát và sẽ chìm vào giấc ngủ thiên thu nếu không có người “đánh thức” ông dậy vào năm 1923.


Lăng mộ của Tutankhamun được phát hiện vào năm 1923 bởi Howard Carter, một nhà Ai Cập học người Anh. Theo đuổi lý thuyết rằng lăng mộ này nằm ẩn mình đâu đó ở Thung lũng của các nhà vua, Carter đã được Carnarvon tài trợ tài chính để thực hiện dự án này. Sau nhiều năm ròng rã đào bới, hầm mộ của Tutankhamun đã được khai quật, và là một công bố chấn động dư luận thời bấy giờ. 

Howard Carter - người khởi xướng cuộc khai quật

Truyền thuyết kể rằng hầm mộ bị khai quật là động thái đánh thức giấc ngủ dài của Pharaoh và khởi động một loạt lời nguyền chết chóc giáng lên những người liên quan. Vào đúng ngày tìm thấy lăng mộ, Howard trở về nhà và nhận ra rằng con chim hoàng yến yêu quý của mình đã bị rắn hổ mang ăn thịt. Con rắn hổ mang được coi là biểu tượng của người canh giữ lăng mộ. 

Lăng mộ Tutankhamun ẩn chứa một bộ sưu tập lớn những châu báu của nhà vua, và cả xác ướp của vị vua trẻ. Người ta đồn đại nhau rằng những người thợ đào hầm mộ đã nhìn thấy những chữ tượng hình biểu tượng của xác chết lởn vởn quanh thi thể của Tutankhamen, báo hiệu cái chết của những kẻ xâm nhập.

Vị vua trẻ Tutankhamun

“Họ, những kẻ bước chân vào lăng mộ thần thánh sẽ được gặp đôi cánh của tử thần”. Howard Carter sau này đã phải rất khó khăn mới có thể giữ cho những người thợ trấn tĩnh. 


“Lời nguyền Pharaoh” bắt đầu phát động đầu tiên đối với Carnavon – “mạnh thường quân” của chiến dịch tìm mộ. Ông bị chết vì một vết muỗi cắn lây truyền bệnh. Và đây mới chỉ là sự khởi đầu, rất nhiều người đã chết sau cuộc đào mộ thành công đó. Hai ngày sau khi Carnavon qua đời, xác ướp Tutankhamun được kiểm tra và người ta phát hiện một vết đỏ ở vị trí tương tự vết muỗi cắn của Carnavon trên khuôn mặt vị vua trẻ. 

Những dòng chữ tượng hình trên mộ

Một thời gian ngắn sau đó, nhà khảo cổ Arthur Mace cũng qua đời vì hôn mê sâu không rõ nguyên nhân. Và một chuỗi những cái chết bao trùm lên cả dự án. George Gould, bạn của Carnavon nhìn vào ngôi mộ, và chỉ hôm sau ông lên cơn sốt cao rồi qua đời. Bác sĩ của George cũng chết không lâu sau đó. 

"Xác ướp Ai Cập" và những lời nguyền đáng sợ là nguồn cảm hứng bất tận của phim ảnh

Lời nguyền Tutankhamun đến nay vẫn còn khiến bao nhà khảo cổ học khiếp sợ. Dù nhiều nhà khoa học cho rằng chuỗi cái chết theo sau sự kiện mở hầm mộ là do những người tham gia đã nhiễm một loại vi khuẩn lâu năm trong môi trường ẩm ướt của hầm mộ này; những bí ẩn của một nền văn minh cổ đại vẫn nguyên vẹn là một điều khiến chúng ta và các thế hệ sau này phải trăn trở suy ngẫm: Có hay không sự trừng phạt của một đấng tối cao lên những kẻ xâm phạm thánh địa?

Nguyễn Hiền Trang (TH)
 
Nguồn : http://xzone.vn/Web/77/482/77204/Bi-an-cac-nen-van-minh-co-dai-ky-1.html

Bí ẩn các nền văn minh cổ đại (kỳ 2)

04.05.2012 11:25
Nhiều giả thuyết cho rằng kim tự tháp Giza cổ xưa không phải do người Ai Cập xây dựng.

Theo những nghiên cứu thông thường từ trước tới nay, 3 kim tự tháp trên cao nguyên Giza, Ai Cập được cho là lăng mộ của ba vị vua triều đại thứ 4 trước Công nguyên, nghĩa là khoảng 4500 năm trước và là kỳ quan lâu đời nhất trong 7 kỳ quan của thế giới cổ đại. Cả 3 kim tự tháp đều được biết đến với kiến trúc và kết cấu vào bậc cao nhất trong lịch sử loài người. 


Kim tự tháp Lớn cao 146,7m với diện tích 53 000 mét vuông, đủ để chứa các Thánh đường lớn Châu âu như St Pauls và Westminster Abbey. Truyền thuyế kể rằng bề mặt của kim tự tháp ban đầu là lớp đá đen, có thể là mã não, sau đó là đá vôi mịn có độ bóng cao. 

Không gian bên trong kim tự tháp được biết đến là lối xuống, lối lên, gian phòng lớn, 2 phòng chính là “phòng vua” và “phòng hoàng hậu” và rất nhiều hang hốc bí ẩn. 


Vấn đề đặt ra là mặc dù được cho là lăng mộ của hoàng đế Khufu, không có một dấu tích nào về Khufu còn lại ở đây. Không có thi hài, xác ướp, vật liệu ướp hay bất cứ vật phẩm nào khác. Trên các kim tự tháp ở cao nguyên Giza, không có bất cứ một cái tên của vị vua nào được khắc ghi. Điều này đặt ra câu hỏi cho rất nhiều người: Liệu có thực sự các vị vua triều đại thứ 4 ở Ai Cập đã xây dựng kim tự tháp Giza? 


Trên thực tế 3 kim tự tháp nằm trên cao nguyên Giza là minh chứng của một kỹ thuật điêu luyện, và khả năng tính toán cũng như xây dựng phi thường, là một bước nhảy vọt đến mức phi lý so với triều đại thứ 3. Bên cạnh đó, các kim tự tháp ở Giza cũng khác biệt khác nhiều so với các kim tự tháp khác ở Ai Cập.


Điểm khác biệt đầu tiên là chỉ có kim tự tháp Giza có phòng bí mật ở trên cao trong khi các kim tự tháp khác chỉ có phòng ngầm dưới đất hoặc gần móng. Đặc biệt, chỉ có kim tự tháp nhỏ phía trước có lưu giữ khi chép của Pharaoh Khufu rằng ông đã xây dựng chúng tuy nhiên đây lại là kim tự tháp hư hại nặng nhất so với những cái còn lại, có cấu trúc tinh vi hơn nhiều. 

Liệu Khufu có phải người ra lệnh xây dựng các kim tự tháp trên cao nguyên Giza?

Chỉ có kim tự tháp Giza mới được định hướng chính xác theo la bàn và thể hiện những kiến thức khoa học sâu rộng về phép đo trái đất, điều mà chúng ta không thể thấy được ở các kim tự tháp khác. 

Tổ hợp kim tự tháp Giza được thiết kế và xây dựng hoàn toàn khác biệt. Chúng hoàn toàn không có hệ thống khung bên trong mà chính những khối đá được đo đạc chính xác đã tạo độ ổn định và bền vững cho kim tự tháp. Các kim tự tháp này cũng không có những biểu tượng tôn giáo hay chữ tượng hình bên trong. Với công nghệ và kỹ thuật xuất sắc, đây là kim tự tháp bền vững nhất với thời gian ở Ai Cập. 


Các phiến đá của kim tự tháp được ghép nối với nhau hoàn hảo tới mức sợi tóc cũng khó lòng lọt qua. Lớp trầm tích dày tới 4,3m quanh nền kim tự tháp chứa nhiều vỏ sò hóa thạch có niên đại tới gần 11.600 năm tuổi. Vậy thì khả năng rất cao kim tự tháp Giza được xây dựng từ cách chúng ta tới 12000 năm, chứ không phải 4000 năm vào thời đại các Pharaoh. 


Có hay không một thế lực siêu phàm với trí tuệ vượt bậc đã “nhúng tay” vào xây dựng những kim tự tháp sừng sững trên cao nguyên Giza? Đây mãi mãi là bí ẩn không lời giải với những nhà nghiên cứu và toàn thể nhân loại. 


Nguyễn Hiền Trang (TH)
Nguồn : http://xzone.vn/Web/77/482/77268/Bi-an-cac-nen-van-minh-co-dai-ky-2.html



Bí ẩn các nền văn minh cổ đại (kỳ 3)

07.05.2012 09:34
Nữ hoàng Nefertiti không chỉ nổi tiếng với vẻ đẹp mê hồn mà còn bởi những bí ẩn bao phủ quanh nàng.

“Nefertiti”, trong tiếng Ai Cập nghĩa là “người đẹp đang tới”, là cái tên hoàn toàn xứng đáng với nữ hoàng Ai Cập cổ đại. 

Một trong những câu truyện đẹp và gợi cảm nhất về Nefertiti là màn trình diễn thoát y vũ mỗi buổi sáng sớm. Khi những tia nắng mặt trời đầu tiên rọi chiếu Ai Cập cũng là lúc nàng Nefertiti bắt đầu màn khiêu vũ khỏa thân, nhằm kích động vị thần mặt trời. 


Người ta kể lại rằng Nefertiti nhảy múa giữa một dàn nhạc công mù, để họ không thể thấy được vẻ đẹp rạng ngời của bà hoàng trong nghi thức tôn giáo này. Trong tiếng vỗ tay và ca hát, Nefertiti trút bỏ bộ xiêm y trong suốt, hiến dâng tấm thân ngọc ngà cho ánh mặt trời ve vuốt. 

Người dân Ai Cập tin rằng nếu thần mặt trời bị kích động trước nhan sắc khuynh thành của nàng, thần dân Ai Cập cũng được ưu đãi. 

Truyền thuyết đồn đại về nàng và sương mù của bí ẩn bao phủ quanh hình ảnh người con gái đẹp nhất Ai Cập. Nefertiti là vợ của Pharaoh Akhenaten, và nàng đã tìm mọi cách để giữ người đàn ông đầy uy quyền này cho riêng mình. Lời đồn còn đi xa hơn nữa khi cho rằng Nefertiti đã yểm bùa mê lên người chồng. 


Liệu bùa mê của Nefertiti có tác dụng hay không? Không ai có thể trả lời chính xác câu hỏi này. Chỉ biết rằng Akhenaten đã mê đắm nàng trong suốt một thời gian dài. Chiều theo ý thích của Nefertiti, Akhenaten đã trao quyền lực tối ưu cho nàng, lựa chọn tôn sùng thần mặt trời trên mọi thần khác. Điều này đã làm cho rất nhiều thày tu nổi giận, gây nên sóng gió cho gia đình hoàng tộc sau này. 


Nefertiti nắm giữ những bí quyết quyến rũ đàn ông mà đến ngày nay nhiều người phụ nữ vẫn phải “chạy dài” học tập. Trước đêm ân ái, nàng tắm bằng thứ nước ướp hương liệu đặc biệt rồi bôi sáp thơm vào các khớp trên cơ thể. Cuối cùng là nàng xức lên mình thứ nước hoa ngào ngạt. 

Nefertiti cạo sạch tóc và đội tóc giả, cắt cao sau cổ và rủ che mặt, nhấn mạnh đôi mắt bằng phấn đen ấn tượng. 


Nefertiti sinh được 6 người con những trớ trêu tất cả đều là con gái. Điều này đã khiến nàng không thể giữ nổi chân của Akhenaten khi Kiya, một người vợ khác sinh hạ hoàng tử Tutankhamun. 

Cái chết và nơi chôn cất Nefertiti là bí ẩn lớn với nhân loại trong một thời gian dài. Chỉ đến năm 2003, Fletcher, một nhà khảo cổ học đã tìm được những đầu mối chứng minh một xác ướp tại Thung lũng các nhà vua là thi thể của người đẹp. 


Điều gây chấn động nhấn là cơ thể đó đầy thương tật. Ngực và cổ bị rạch nát, ngực trái bị đâm, cánh tay trái và bàn chân bị gãy. Nhiều nhà khoa học đã đặt ra giả thuyết Nefertiti bị sát hại bởi những kẻ ghen ghét nàng, có thể là những thầy tu dòng Amen, những người phản đối việc tôn thờ duy nhất thần mặt trời, cũng có thể là những người vợ khác của Akhenaten, từng bị Nefertiti trả thù.


Những bí ẩn này vẫn còn cần rất nhiều nghiên cứu trước khi sáng tỏ. Chỉ có vẻ đẹp của nàng Nefertiti vẫn còn được lưu giữ trong bức tượng khả ái của người đẹp, trưng bày ở viện bảo tàng Berlin (Đức), với chiếc cổ thon dài và nụ cười đỏ quyến rũ. 



Nguyễn Hiền Trang (TH)
Nguồn : http://xzone.vn/Web/77/482/77370/Bi-an-cac-nen-van-minh-co-dai-Ky-3.html

Bí ẩn các nền văn minh cổ đại (kỳ 4)

08.05.2012 08:48
Những bức tượng nhân sư gắn liền với truyền thuyết bí ẩn không lời giải đáp của người Ai Cập cổ đại.

Nhân sư (Sphinx) là một quái vật tạc bằng đá, mình sư tử đồ sộ, đầu người được chạm trổ công phu với đôi mắt đầy vẻ bí hiểm. Tượng nhân sư nổi bật bởi vẻ đồ sộ của mình với chiều cao từ 18 – 20 mét và trải dài tới gần 60 mét. 


Tượng Sphinx có niên đại đã rất lâu đời khoảng 5000 năm, và được xây dựng bên các kim tự tháp Ai Cập cổ đại và cho đến nay lý do vì sao chúng được dựng nên vẫn còn là một bí ẩn đối với nhân loại. 

Có rất nhiều giả thuyết giải thích cho sự ra đời của các nhân sư. Có người cho rằng những bức tượng nhân sư được tạc để canh giữ phần mộ của những vị pharaoh Ai Cập cổ đại. Lại có giả thuyết khác khẳng định Sphinx chính là hiện thân của thần Mặt trời Harmachis, vị thần mà người Ai Cập cổ đại thờ phụng. 


Một trong những giả thuyết rất được ủng hộ là tượng nhân sư là biểu tượng của các vị hoàng đế Ai Cập. Theo người Ai Cập, vị vua có sức mạnh của loài sư tử, vua của muôn loài, và trí tuệ siêu phàm, vì vậy họ đã chạm các vị hoàng đế và thần thánh của họ nửa người, nửa thú. 

Tượng nhân sư lớn nhất và nổi tiếng nhất là Tượng nhân sư lớn nằm trên cao nguyên Giza, quay mặt về hướng Đông và thường được cho là khắc họa đầu của pharaoh Khafra. 


Nhân vật này cũng xuất hiện rất nhiều trong các truyền thuyết bí ẩn của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là ở Hy Lạp với biển thế nhân sư là một con quỷ với đầu và bộ ngực phụ nữ, thân sư tử, cánh đại bàng và đuôi rắn. 


Một trong những câu chuyện mà người ta hay truyền tai nhau về nhân sư là chuyện nhân sư gác cửa thành phố Thebes, Hy Lạp do người khổng lồ Typhon và yêu quái rắng Echidna sinh ra. Từng theo học nữ thần trí tuệ nên Sphinx rất thông minh nhưng lại hung tàn. Nó nằm phục trước cổng thành Thebes và đưa ra những câu đố bí hiểm cho ai muốn vào thành. Câu đố này không được ghi lại chính xác nhưng đã được dân gian truyền tụng lại dưới nhiều hình thức khác nhau.


Câu đố nổi tiếng nhất được truyền lại chính là: “Sinh vật nào buổi sáng đi bằng bốn chân, buổi trưa đi hai chân và buổi chiều đi ba chân, và khi nó càng có nhiều chân thì nó càng yếu”. Nhân sư bóp cổ và ăn thịt tất cả những ai không trả lời được. Cũng chính vì vậy nó mới có tên là Sphinx, một động từ mà theo gốc La Tinh có nghĩa là “bóp cổ”.

Một câu đố khác hiếm gặp hơn (và cũng khó hơn) là: “Có hai chị em: một người sinh ra người kia và người kia lại sinh ra người này” và câu trả lời là “ngày và đêm”, cả 2 đều là giống cái trong tiếng Hy Lạp.

Dù là câu đố nào đi chăng nữa, tất cả đều thống nhất rằng một người thanh niên tên là Oedipus đã trả lời đúng câu hỏi này, khiến nhân sư nổi giận lao đầu xuống thềm đá chết. 


Gần đây nhất, vào năm 1991, một nhóm các nhà địa chất học đã tuyên bố những nghiên cứu mới nhất về tượng nhân sư trong đó khẳng định những bức tượng sư tử mặt người này đã được điêu khắc từ 7000 năm trước công nguyên, xa hơn cả niên đại của người Ai Cập cổ đại. 

Một nghi vấn mới được đặt ra: Nếu những kim tự tháp có thể là sản phẩm của một trí tuệ siêu phàm ngoài trái đất thì vì sao Sphinx – những bức tượng nhân sư cùng một quần thể lại không thể và liệu có chăng một thế lực bí ẩn “nhúng tay” vào những công trình trên trái đất. Tất cả đều là bí ẩn, tựa như nụ cười mỉm và ánh mắt xa xăm của bức tượng nhân sư đồ sộ. 

Nguyễn Hiền Trang (TH)

 Nguồn : http://xzone.vn/Web/77/482/77446/Bi-an-cac-nen-van-minh-co-dai-Ky-4.html

Bí ẩn các nền văn minh cổ đại (kỳ 5)

09.05.2012 11:08
Quá trình ướp xác rùng rợn nhưng thể hiện một trí tuệ vượt bậc đã khiến báo chí tốn bao giấy mực.



1. Vì sao người Ai Cập ướp xác?


Người Ai Cập cổ đại tin rằng thân thể là nơi trú ngụ của linh hồn và là phần chủ chốt của con người trong kiếp sau. Họ không cho rằng những công đoạn ướp xác là khủng khiếp hay rùng rợn mà quan niệm cái chết có một ý nghĩa đẹp, là sự chuẩn bị cho việc trình diện trước thượng đế.





2. Quy trình ướp xác của người Ai Cập cổ đại?

Ban đầu, người chết được đặt trong những chiếc giỏ bằng sậy và vùi xuống cát. Do điều kiện khô nóng của Ai Cập, cát sẽ khiến xác người khô đi nhanh chóng, ngăn chặn được sự phân hủy. Trong khi những người thợ lành nghề phải chạy đua để xây dựng lăng mộ, những người ướp xác bắt đầu chuẩn bị cho những quá trình ướp kỹ lưỡng hơn, giúp xác chết không bị phân hủy.


Bước đầu tiên của quá trình ướp xác là loại bỏ các cơ quan nội tạng. Người ướp xác dùng đục đập vỡ xương cuối mũi và dùng một cái móc luồn qua lỗ mũi đến sọ và làm vỡ não để dễ dàng lấy não ra ngoài.



Để lấy ra các phần nội tạng, những người ướp xác rạch một vết ở bên trái bụng, chỉ riêng trái tim được đặt ở chỗ cũ. Các phần nội tạng này được đặt trong một chiếc bình kín và chôn cùng trong lăng mộ vì họ tin rằng con người vẫn cần đến nội tạng để sống được ở thế giới bên kia, chỉ có não là bị bỏ đi vì người Ai Cập vẫn chưa biết đến chức năng của nó.

Sau công đoạn đáng sợ này, xác được tắm bằng rượu cọ hay nước sông Nile để triệt tiêu vi khuẩn sinh sôi trong xác chết, những túi lanh đựng muối Natron được nhét vào ổ bụng qua đường rạch để ngừa ẩm. Xác được đặt ở chỗ nóng và phủ đầy natron, một miếng kim loại hình con mắt của thần Horus được đặt lên vết rạch ở bụng. 


Những bùa chú cũng được đặt cùng với xác ướp để bảo vệ tuyệt đối giấc ngủ của người đã khuất. 

3. Nghi lễ chôn cất cổ đại như thế nào?

Tùy theo từng tầng lớp xã hội mà xác ướp sẽ được chôn cất. Với những người ở tầng lớp thấp, hầm mộ sẽ chỉ được xây cất sơ sài hay ở rìa những hầm mộ lớn. Những người ở địa vị cao hơn được chôn kỹ trong hầm mộ được trang trí và đặc biệt những Pharaoh, người nắm quyền lực tối đa ở Ai Cập sẽ được xây trong quan tài đá, được trang trí tỉ mỉ. 


Nghi lễ cuối cùng là lễ mở miệng khi thày tu dùng que móc mở miệng xác ướp để xác ướp có thể nói chuyện trong kiếp sau.

Người Ai Cập còn ướp cả xác động vật, đặc biệt là mèo vì tin vào sức mạnh của các loài động vật. 


Theo người Ai Cập, người chết không thực sự tan biến mà vẫn tồn tại, và chỉ đang yên ngủ, vì vậy bất cứ sự xâm phạm nào vào nơi yên nghỉ của những xác ướp cũng sẽ bị trừng phạt. Những lời nguyền này có thật hay không, không ai có thể biết chắc, chỉ biết rằng một loạt những cái chết thảm khốc đã xảy ra với những người dám phá bĩnh giấc ngủ nghìn năm của các Pharaoh. 








Hiền Trang (TH) Nguồn :  http://xzone.vn/Web/77/482/77578/Bi-an-cac-nen-van-minh-co-dai-Ky-5.html


Bí ẩn các nền văn minh cổ đại (kỳ 6)

14.05.2012 07:53
Một trong những bí ẩn của người Ai Cập để lại cho nhân loại chính là hệ thống chữ viết tượng hình cổ.
Chữ tượng hình hay Hieroglyph bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp nghĩa là “những chữ khắc thần thánh”, ra đời từ khi xã hội có giai cấp bắt đầu hình thành ở Ai Cập. Đây là một hệ thống chữ viết chính thức phối hợp giữa các yếu tố tốc ký và các mẫu tự. 


Ký tự khắc đầu tiên được tìm thấy trong các di tích cổ có niên đại khoảng 3200 năm trước công nguyên. Tuy nhiên, gần đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những ký hiệu tương đồng trên đồ gốm Gerzean, với niên đại lâu hơn, tới 4000 năm trước Công nguyên. 

Sở dĩ chữ được gọi là chữ tượng hình là do dạng thức sơ khai của nó là biểu thị vật bằng hình thù của vật ấy. Vì vậy, nhìn vào các văn tự Ai Cập cổ đại, ta sẽ thấy các hình vẽ người, động vật như chim, gia súc, dã thú, cây cối, trăng sao, núi non…


Đối với các khái niệm trừu tượng, phức tạp hơn, người Ai Cập cổ dùng phương pháp ghép ý hay mượn ý. Ví dụ muốn nói đến chữ “khát” thì vẽ một con bò đứng cạnh nước. Về sau, khi chữ viết đã phát triển hơn nữa, những hình vẽ biểu thị âm tiết dần xuất hiện. Ví dụ từ con mắt sẽ được biểu thị bằng âm tiết “ar”. 


Các chữ tượng hình có thể được viết từ mọi hướng: phải sang trái, trái sang phải, trên xuống dưới nhưng thông thường là từ trái sang phải. Khi đọc, cần chú ý hướng mặt của người hay động vật. Nếu mặt quay về phía trái thì cần đọc từ trái sang phải và ngược lại. 

Vào thiên niên kỷ II trước Công nguyên, loại chữ viết này được người Fenici học tập rồi trên cơ sở ấy sang tạo ra vần chữ cái đầu tiên trên thế giới. 


Năm 1789, Napoleon trong một chuyến viễn chinh sang thành phố Rosetta, Ai Cập đã phát hiện một tấm bia phía trên có khắc chữ Ai Cập cổ và phía dưới khắc chữ Hy Lạp. Đến năm 1822, Champollion, một nhà ngôn ngữ học người Pháp đã giải mã được thứ chữ trên bản khắc này đặt nền móng cho một môn khoa học mới ra đời. Đó là môn Ai Cập học. 


Một huyền thoại về chữ tượng hình Ai Cập là huyền thoại về những lời nguyền và thần chú. Thực tế, hầu hết các bản khắc đều là miêu tả lịch sử của các thày tu. Tuy nhiên, vẫn có những câu mang đầy tính “đe dọa” như: “Tuổi thọ của mi sẽ bị giảm đi”, hay “Mi sẽ không có người thừa kế” khắc trên hầm mộ của các Pharaoh, gây nỗi hoang mang cho nhân loại bao thời đại. 

Một trong những bí ẩn khác về chữ tượng hình là việc xuất hiện hình ảnh rất rõ ràng của một chiếc máy bay trong hệ thống chữ cổ. Điều này đặt ra một câu hỏi mới cho nền khoa học. Liệu có thể nào trí tuệ của người Ai Cập cổ đại đã phi thường đến mức sáng chế ra máy bay từ kỷ nguyên ấy, hay tất cả chỉ là sản phẩm của một trí tưởng tượng vượt trước thời đại. 

Hình ảnh máy bay trên mẫu tự cổ

Hiền Trang (TH)

 Nguồn : http://www.baomoi.com/Home/KhoaHoc-TuNhien/xzone.vn/Bi-an-cac-nen-van-minh-co-dai-ky-6/8460132.epi

Những truyền thuyết bí ẩn về Ai Cập cổ đại

Cập nhật lúc 10h32' ngày 27/03/2012


Ai Cập cổ đại vốn được biết đến với vô vàn truyền thuyết bí ẩn, những khám phá dưới đây sẽ cho bạn có những cái nhìn mới về những điều đó.

1. Vẻ đẹp của nữ hoàng Cleopatra

Vẻ đẹp của nữ hoàng Cleopatra
Cleopatra VII, vị Pharaoh cuối cùng của Ai Cập cổ đại luôn luôn là một nhân vật lịch sử nổi tiếng với vẻ đẹp quyến rũ. Ý tưởng này đã tồn tại trong hầu hết tất cả mọi người từ Shakespeare cho đến đạo diễn phim Joseph L. Mankiewicz. Tuy nhiên, đồng tiền La Mã lại cho thấy Cleopatra có các đường nét nam tính: một chiếc mũi lớn, cằm nhô ra và đôi môi mỏng - không phải bất kỳ nguyên mẫu nào của văn hóa đều có ngoại hình đẹp. Mặt khác, theo một số nguồn tài liệu đáng lưu ý Cleopatra rất thông minh, trái ngược với vẻ đẹp bên ngoài.

2. Bị ám ảnh bởi cái chết

Ám ảnh bởi cai chết
Tìm hiểu về Ai Cập cổ đại với các kim tự tháp, xác ướp và các vị thần, thật dễ dàng để đi đến kết luận họ bị ám ảnh bởi cái chết. Cách thức mà người Ai Cập mai táng thực sự là một cách để tôn vinh cuộc sống. Ví dụ, những hoạ tiết minh họa bên trong các ngôi mộ là buổi lễ thờ cúng nông nghiệp, săn bắn và câu cá. Hơn nữa, các đồ trang sức đắt tiền được chôn cùng với người Ai Cập đã giúp họ tiếp cận với thế giới bên kia, nơi họ tiếp tục công việc hiện tại của họ mà không gặp bất kỳ khó khăn nào. Ướp xác là một cách để giữ cho xác chết sống động như thật, sẵn sàng cho hình thức lý tưởng hóa cuộc sống hàng ngày. Rõ ràng là người Ai Cập bị ám ảnh bởi cuộc sống, không phải là cái chết.

3. Người ngoài hành tinh

Người ngoài hành tinh
Có một số người tin rằng người Ai Cập đã được tiếp xúc với người ngoài hành tinh. Họ cáo buộc rằng các kim tự tháp là những thành tựu siêu phàm và một số bức tranh tường mô tả những nơi ngoài Trái Đất. Điều này có lẽ đã xúc phạm đến các di sản của người Ai Cập cổ đại. Trong khi kim tự tháp Giza là thành tựu toán học đáng kinh ngạc, công trình của các nhà thiên văn học tài tình, các học giả và các kiến trúc sư của thời đại. Và trong khi các Kim Tự Tháp đóng vai trò là cấu trúc cao nhất trong gần 4000 năm, cũng không có nghĩa người Ai Cập là những người bạn với người ngoài hành tinh, nó chỉ có nghĩa là không có nền văn hóa nào có thể sánh với cấu trúc tượng đài của người Ai Cập cho đến thế kỷ 19.

4. Hoàn toàn được khám phá

Hoàn toàn được khám phá
Nhiều người tin rằng chúng ta đã phát hiện ra tất cả mọi thứ về Ai Cập cổ đại. Điều này là hoàn toàn không chính xác. Những khám phá hấp dẫn về Ai Cập cổ đại vẫn đang được tiến hành hàng ngày nhằm làm sáng tỏ nhiều điều mới mẻ về nền văn minh của họ. Ví dụ, một "thuyền năng lượng mặt trời" hiện đang được chiết xuất từ các kim tự tháp. Tàu năng lượng mặt trời này được cho rằng, sẽ cho phép thi thể của các Pharaoh hỗ trợ thần mặt trời Ra trong trận chiến với Apep, con quỷ của bóng tối vĩnh cửu. Mỗi đêm, thần Ra sẽ đi thuyền buồm năng lượng mặt trời của mình để chiến đấu với Apep và vào lúc bình minh, thần Ra sẽ nổi lên với niềm chiến thắng và đi ngao du trên bầu trời.

5. Chữ tượng hình

Chữ tượng hình
Mọi người dường như đều cho rằng người Ai Cập cổ đại phát minh ra chữ tượng hình. Tuy nhiên, chữ tượng hình nguyên thủy có lẽ được truyền bá vào Ai Cập nhờ những người phương Tây xâm lược. Một huyền thoại khác cho rằng chữ tượng hình là một ngôn ngữ của lời nguyền và những câu thần chú kỳ diệu. Trong thực tế, hầu hết các chữ tượng hình đều được sử dụng cho các bản chữ khắc hoặc miêu tả lịch sử. Lời nguyền hiếm khi được tìm thấy trong các ngôi mộ và hầu như đều là những câu: "Tuổi thọ của mi sẽ bị giảm đi" hay "Mi sẽ không có người thừa kế". Thật thú vị, cho đến khi Rosetta Stone được phát hiện vào năm 1798, và sau đó được dịch ra thì hầu hết các học giả tin rằng các chữ tượng hình minh họa không phải là âm ngữ âm để tạo thành một bảng chữ cái.

6. Cách trang trí trong kim tự tháp

Cách trang trí trong kim tự tháp
Chữ tượng hình chiếm một phần lớn trong nội thất của nhiều ngôi mộ cổ và cung điện của Ai Cập. Nhưng trái với huyền thoại, các kim tự tháp hầu như không được trang trí. Thật vậy, cho đến gần đây các kim tự tháp tại Giza được cho là hoàn toàn trần bên trong. Giả thiết này đã bị phá vỡ khi chữ tượng hình đã được tìm thấy đằng sau một cánh cửa bí mật trong các Kim Tự Tháp một vài tháng trước đây. Ngoài ra, các kim tự tháp không hoàn toàn là đá vôi màu 4000 năm trước: một số đoạn, chẳng hạn như các trụ cột nội thất, được sơn màu đỏ hoặc màu trắng. Loại sơn này và các văn bản bí ẩn khiến cho các kim tự tháp trở nên rất giản dị. Kiến trúc chủ yếu là xi măng và các kim tự tháp là các tòa nhà bằng đá lâu đời nhất và phổ biến nhất trên thế giới.

7. Các Pharaoh giết hại người hầu

Các pharaoh giết hại người hầu
Khi các vị vua chết, người hầu của họ không bị giết và chôn cùng giống như hầu hết mọi người vẫn tin, ngoại trừ một số trường hợp ngoại lệ. Hai vị vua của triều đại đầu tiên của Ai Cập được biết đến với việc chôn người hầu cùng với họ. Xu hướng khái quát của con người đã dẫn đến truyền thuyết. Các vị vua sau này có thể nhận ra rằng các người hầu đáng tin cậy của họ hữu ích khi còn sống hơn là phải chết, vì vậy thay thế cho những người hầu là những bức tượng nhỏ được chôn cùng với chủ để giúp đỡ các Pharaoh ở thế giới bên kia.

8. Những nô lệ xây kim tự tháp

Những nô lệ xây dựng kim tự tháp
Ý nghĩ nô lệ xây dựng các kim tự tháp ở Ai Cập đã được lưu hành kể từ khi nhà sử học Hy Lạp Herodotus báo cáo trong thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên. Điều này đã được xác nhận là sai lầm khi ngôi mộ chứa hài cốt của những người xây dựng kim tự tháp được tìm thấy bên cạnh các kim tự tháp ở Giza. Được chôn cất bên cạnh các vị vua là vinh dự lớn nhất, không bao giờ cấp cho các nô lệ. Ngoài ra, số lượng lớn xương gia súc được khai quật tại Giza cho thấy thịt bò, một món ăn ở Ai Cập cổ đại, là thực phẩm chủ yếu của những người xây dựng. Xây dựng các kim tự tháp rõ ràng phải là những thợ thủ công có tay nghề của Ai Cập, không phải là nô lệ như mọi người nghĩ.

9. Lời nguyền của các Pharaoh

Lời nguyền của các pharaoh
“Lời nguyền” đối với những người mở ngôi mộ của Pharaoh Tutankhamun là một thắng lợi của phương tiện truyền thông quảng cáo và tính nhạy cảm của công chúng. Truyền thuyết này là về một lời nguyền của Tutankhamun đã giết chết nhà tài trợ Lord Carnarvon và các thành viên khác của đoàn thám hiểm. Mặc dù một số giả thuyết đã được đưa ra như là do một loại nấm nguy hiểm và các loại khí tích tụ bên trong ngôi mộ, những cái chết vẫn không có một lời giải thích. Chỉ có 8 trong 58 nhà thám hiểm phát hiện ra ngôi mộ đã chết trong vòng 12 năm. Người dẫn đầu đoàn thám hiểm Carter đã sống trên 16 năm. Những sự trùng hợp khác là một trường hợp xác nhận thiên vị: bất kỳ sự bất hạnh nào xảy ra với bất cứ ai trong đoàn thám hiểm đều được gán cho là do lời nguyền của các Pharaoh. Lời nguyền là một ví dụ điển hình của sự thúc đẩy người dân tin vào một câu chuyện thú vị thay vì các sự kiện.
Theo Genk, Listverse

+++++++++++++++++++++++++++++++++

1.7  Tôn giáo Ai Cập cổ đại

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Một phần của loạt bài
Tín ngưỡng Ai Cập cổ đại
Eye of Horus bw.svg

Niềm tin chủ yếu
Tín ngưỡng · Linh hồn · Duat · Con số · Đa thần giáo
Tập quán
Cúng bái · Chôn cất
Amun · Amunet · Anubis · Anuket · Apep · Apis · Aten · Atum · Bastet · Bat · Bes · Bốn người con của Horus · Geb · Hapy · Hathor · Heka · Heqet · Horus · Isis · Khepri  · Khnum · Khonsu · Kuk · Maahes  · Ma'at · Mafdet · Menhit · Meretseger · Meskhenet · Monthu · Min · Mnevis · Mut · Neith · Nekhbet · Nephthys · Nu · Nut · Osiris · Pakhet · Ptah · Ra · Ra-Horakhty · Reshep · Satis · Sekhmet · Seker · Selket · Sobek · Sopdu · Set · Seshat · Shu · Taweret · Tefnut · Thoth · Wadjet · Wadj-wer · Wepwawet · Wosret
Tài liệu
Amduat · Sách hơi thở · Sách hang · Sách chết · Sách Trái Đất · Sách cổng · Sách địa ngục
Khác
Atenism · Lời nguyền của các Pharaông

Tôn giáo Ai Cập cổ đại bao gồm các niềm tin tôn giáo và nghi thức khác nhau tại Ai Cập cổ đại qua hơn 3.000 năm, từ thời kỳ Tiền Triều Đại cho đến khi du nhập Kitô giáo trong những thế kỷ đầu Công nguyên. Những niềm tin này tập trung vào thờ cúng các vị thần đại diện cho nhiều khía cạnh, ý tưởng và chức năng quyền lực khác nhau của thiên nhiên, thể hiện qua các nguyên mẫu phức tạp và đa dạng. Vào thời kỳ của triều đại thứ 18, người Ai Cập đã có nâng vị thế một số đơn vị thần như Amun lên hàng đấng sáng tạo vũ trụt với nhiều biểu hiện, tương tự như khái niệm kinh tế cũng được tìm thấy trong đạo Ki-tô: niềm tin rằng một Thượng đế có thể tồn tại trong nhiều hơn một người [1].
Những vị thần được tôn thờ với các nghi lễ và cầu nguyện, trong các ngôi đền địa phương và đền thờ gia đình cũng như trong ngôi đền chính thức quản lý bởi các giáo sĩ. Các vị thần khác nhau đã được nổi bật ở giai đoạn khác nhau của lịch sử Ai Cập, và các huyền thoại liên quan đến họ thay đổi theo thời gian, do đó, Ai Cập chưa bao giờ có một hệ thống thứ bậc các vị thần chặt chẽ hay một thần thoại thống nhất. Dù vậy, trong tôn giáo Ai Cập có nhiều niềm tin bao quát. Trong số đó có sự tôn thờ của pharaon - đã giúp thống nhất quốc gia về mặt chính trị [2], và niềm tin phức tạp về một thế giới bên kia, mà đã dẫn đến việc gia tăng tục chon cất công phu của người Ai Cập.

Mục lục

Các vị thần

Truyền thuyết về các vị thần của Ai Cập cổ đại khá đặc biệt. Thần Mặt Trời, hay Thần Thái Dương là Ra, sinh ra hai vị thần, nam thần Shu - thần không khí và nữ thần Tefnut, thần hơi nước [3]. Shu và Tefnut cưới nhau rồi sinh ra đôi thần trai gái là NutGeb. Nut và Geb cũng yêu nhau, nhưng bị cha cấm hẹn hò vì vậy họ phải lén lút với nhau. Một hôm, thần Shu bắt gặp, ném Nút lên trời, đạp Gép xuống sâu trong mặt đất [4]. Từ đó, Nút là nữ thần bầu trời, Gép là nam thần mặt đất. Nhưng nhờ có thần trí tuệ Thot, cả hai cũng được cưới nhau và bên nhau chỉ trong năm ngày (thần Shu làm cho lịch thành 360 ngày, thần Thot thắng 72 ván cờ với thần Shu nên đã làm cho lịch chuyển thành 365 ngày nhờ ánh sáng của thần Thái dương).
Nút sinh ra năm vị thần là: Osiris, Isis, Seth, NephthisHaeroit. Cả năm vị thần đều là những vị thần quan trọng trong thế giới Ai Cập, được ghi chép lại trong cuốn "Book of The Dead" nghĩa là Sách của Người Chết.

Thần Ra


Thần Ra, Thần Mặt trời của Ai Cập.
Thần Ra là Thần Mặt trời của Ai Cập. Trong Sách của Người Chết có miêu tả thần Ra vào buổi sáng biến thành một em bé, buổi trưa trở thành một thanh niên lực lưỡng và về chiều tối, thần trở thành một ông cụ [5].
Truyền thuyết kể lại rằng, Isis, vợ của Osiris, ghen tỵ với thần Ra, nàng liền nặn một con rắn bằng đất ở chỗ thần Ra vẫn thường đi lại. Khi thần Ra tới, nàng núp sau một tảng đá, hóa phép cho con rắn thức dậy, con rắn liền cắn thần Ra một nhát chí mạng. Thế là, mọi quyền của thần Ra đều thuộc về Isis [6].

Osiris và Seth


Bốn người con của Horus, tên của bốn vị, từ trái sang: Imsety, Duamutef, Hapy, và Qebehsenuef.
Osiris cưới Isis rồi Isis sinh ra Horus. Osiris được nối ngôi Thần thái dương, trở thành thần nông nghiệp, thần sinh đẻ và thần hạnh phúc đem hạnh phúc cho nhân loại, cải tạo nông nghiệp, dạy dân trồng nho, làm rượu, trồng ngũ cốc và chăn gia súc [7]. Osiris cũng dạy con người cách xây đền thờ, xây kim tự tháp nguy nga, tráng lệ. Osiris đi đâu cũng được mọi người kính trọng và yêu quý. Tuy nhiên, thần Seth, em trai của thần Osiris, lại ghẻ lạnh và căm ghét Osiris chỉ vì anh được nối ngôi, được mọi người kính trọng. Rồi Seth đã nghĩ ra kế hiểm độc đó là giết chết anh trai bằng cách dụ Orisis nằm vào quan tài rồi đóng đinh và thả xuống biển. Sau đó, Seth chiếm đoạt ngôi vị của anh trai và làm bao điều bạo tàn, ác độc khiến cho dân chúng và các vị thần khác bất bình [8]. Isis biết chuyện, đau khổ vô cùng và tìm mọi cách để tìm thân thể Osiris. Sau khi tìm thấy thân thể chồng, Isis kể lại cho con trai Horus nghe. Từ đó, Horus nung nấu ý định giết Seth, trả thù cha.

Cuộc chiến căng thẳng giữa Horus và Seth

Khi đã lớn, Horus triệu tập nhiều trai tráng trong vùng để tập , thành lập một đội để trả thù Seth. Ngày càng có nhiều người vào đội của Horus. Ngày nọ, Horus đến tuyên chiến với Seth nhưng thất bại. Lần hai, Horus đã bẫy được Seth bằng cách cho thuộc hạ núp ở tòa lâu đài rồi căng lưới ra mà bắt. Nhưng Isis tốt bụng đã tha cho Seth, Horus chặt đi một đuôi tóc của Isis [9] rồi lại tuyên chiến lần nữa, nhưng lần này, cả hai đều lên trời nhờ 9 vị thần trên bầu trời xử giúp. Cả 9 vị thần đều biết câu chuyện xấu số của Orisis nên đều nói rằng Horus được nối ngôi.
Nhưng Seth vẫn không chịu thua, Horus cũng tuyên chiến với Seth lần nữa. Sau những gian nan hiểm trở, cuối cùng, Horus được nối ngôi cha và Seth bị Thần thái dương Ra sai làm nô tì cho thần.

Câu chuyện về âm phủ và thế giới bên kia


Thần Osiris, Anubis và Horus trong bức bích họa ở một kim tự tháp, Ai Cập.


Con quái vật Ammit, người Ai Cập tin rằng con quái vật sẽ ăn trái tim của người chết nếu người đó nói dối.
Người Ai Cập tin rằng ở thế giới bên kia, các vị thần chờ những người đã mất ở đó để đón lên thiên đàng hoặc đày xuống địa ngục. Khi qua thiên đường, phải gặp thần Anubis, Anubis dẫn người chết đi đến chiếc cân trái tim, để cân xem người đó ác hay tốt. Nếu anh ta nói dối, chứng tỏ anh ta là người xấu, sẽ bị Ammit, con quái vật hình cá sấu ăn trái tim và bị đày đi địa ngục. Còn nếu trả lời đúng, anh ta sẽ được tiếp đón hậu hĩnh bởi thần Osiris, thần âm phủ [10].
Người Ai Cập rất mê tín nên họ chả dám làm gì sai trái vì câu chuyện trên. Nhưng không phải tất cả đều làm điều tốt. Và tất nhiên là xã hội bao giờ mả chả thế!

Các kim tự tháp và việc thờ cúng

Bài chi tiết: Kim tự tháp

Kim tự tháp KheopsGiza, Ai Cập.

Mặt nạ bằng vàng của vua Tutankhamun.
Người Ai Cập cổ đại thường quan niệm rằng nếu xác chết được đặt trong kim tự tháp, linh hồn sẽ được bất tử. Nhưng chỉ có các pharaohhoàng hậu mới có vinh dự được nằm trong kim tự tháp. Người dân tẩm ướp xác chết, móc lấy não từ đầu mũi, lấy nội tạng ra ngoài, cho vào nhiều hũ bằng gỗ hoặc vàng và tắm rửa sạch sẽ cho xác. Rồi họ bôi dầu thơm và sáp vào xác pharaoh. Sau đó, người ta sẽ bọc xác bằng nhiều lớp vải lanh, rồi cho vào nhiều lớp quan tài bằng gỗ hoặc vàng và lắp mặt nạ của họ vào đầu quan tài để trông giống như người thật. Khi chôn cất, người ta còn mang theo châu báu, hương hoa và đặt bẫy để những linh hồn xấu không quấy rầy vị pharaoh của họ.
Việc xây dựng kim tự tháp không phải là việc dễ chút nào khi họ phải kéo những tảng đá to đùng lên cao và mài cho nó nhọn hoắt như hình tam giác. Kim tự tháp được xây dựng trước khi các pharaoh chết và vào mùa hè, đó là khi nước sông Nile dâng lên. Công việc hết sức khó khăn. Các hòn đá nặng hàng ki-lô-gam được kéo bằng dây chõng lên cao. Sau khi xây xong bằng các hòn đá tảng, kim tự tháp như một cầu thang khổng lồ. Vì vậy, công việc tiếp theo là ốp đá cho kim tự tháp nhọn hoắt.
Việc thờ cúng là một nghi lễ ở Ai Cập cổ. Sau khi chôn cất, người dân mang đồ lễ, hương hoa, đèn, lương thực... đến đền thờ các vị thần và đền thờ pharaoh để cầu phước cho mình được bất tử ở thế giới bên kia.

Chú thích

  1. ^ Allen (2000), pp.43–45
  2. ^ Fleming and Lothian (1997), p. 12
  3. ^ Thần thoại Ai Cập, chương 1
  4. ^ Thiên văn học Ai Cập cổ đại, p.69
  5. ^ Ancient Egyptian legend, chapter 3
  6. ^ Thần Ra., truyền thuyết
  7. ^ Thần Osiris
  8. ^ Ác thần Seth, wikipedia tiếng Việt.
  9. ^ Nữ thần Isis, wikipedia tiếng Việt.
  10. ^ Sách Ai Cập cổ đại, Tủ sách kiến thức Thế hệ mới, Nhà xuất bản Kim Đồng.

Tài liệu tham khảo

  • Allen, James P. (2000). Middle Egyptian: An Introduction to the Language and Culture of Hieroglyphs. Cambridge University Press. ISBN 0521774837.
  • Assmann, Jan (2005). Death and Salvation in Ancient Egypt. Cornell University Press. ISBN 0801442419.
  • Assmann, Jan (2001). The Search for God in Ancient Egypt. Cornell University Press. ISBN 0801487293.
  • David, Rosalie (2002). Religion and Magic in Ancient Egypt. Penguin. ISBN 0140262520.
  • Draper, Robert. “Black Pharaohs”, số ra 2, 1 tháng 2 năm 2008.
  • Fleming, Fergus; Alan Lothian (1997). The Way to Eternity: Egyptian Myth. Amsterdam: Duncan Baird Publishers. ISBN 0705435032.
  • Hornung, Erik (1999). The Ancient Egyptian Books of the Afterlife. Cornell University Press. ISBN 0801485150.
  • Pinch, Geraldine (1995). Magic in Ancient Egypt. University of Texas Press. ISBN 0292765592.
  • Quirke, Stephen; Jeffrey Spencer (1992). The British Museum Book of Ancient Egypt. Thames and Hudson. ISBN 0500279020.
  • Redford, Donald B., ed (2002). The Oxford Essential Guide to Egyptian Mythology. Berkley Publication Group. ISBN 042519096X.
  • Shafer, Byron E., ed (1991). Religion in Ancient Egypt: Gods, Myths, and Personal Practice. Cornell University Press. ISBN 0801497868.
  • Shafer, Byron E., ed (1997). Temples of Ancient Egypt. I. B. Tauris. ISBN 1850439451.
  • Shaw, Ian, ed (2000). The Oxford History of Ancient Egypt. Oxford, England: Oxford University Press. ISBN 0198150342.
  • Taylor, John (2001). Death and the Afterlife in Ancient Egypt. University of Chicago Press. tr. 25. ISBN 0226791645.
  • Wilkinson, Richard H. (2003). The Complete Gods and Goddesses of Ancient Egypt. Thames & Hudson. ISBN 0500051208.
  • Wilkinson, Richard H. (2000). The Complete Temples of Ancient Egypt. Thames & Hudson. ISBN 0500051003.

Đọc thêm

  • Schulz, R. and M. Seidel, "Egypt: The World of the Pharaohs". Könemann, Cologne 1998. ISBN 3-89508-913-3
  • Budge, E. A. Wallis, "Egyptian Religion: Egyptian Ideas of the Future Life (Library of the Mystic Arts)". Citadel Press. August 1, 1991. ISBN 0-8065-1229-6
  • Clarysse, Willy; Schoors, Antoon; Willems, Harco; Quaegebeur, Jan, "Egyptian Religion: The Last Thousand Years : Studies Dedicated to the Memory of Jan Quaegebeur", Peeters Publishers, 1998. ISBN 90-429-0669-3
  • Harris, Geraldine, John Sibbick, and David O'Connor, "Gods and Pharaohs from Egyptian Mythology". Bedrick, 1992. ISBN 0-87226-907-8
  • Hart, George, "Egyptian Myths (Legendary Past Series)". University of Texas Press (1st edition), 1997. ISBN 0-292-72076-9
  • Osman, Ahmed, Moses and Akhenaten. The Secret History of Egypt at the Time of the Exodus, (December 2002, Inner Traditions International, Limited) ISBN 1-59143-004-6
  • Bilolo, Mubabinge, Les cosmo-théologies philosophiques d'Héliopolis et d'Hermopolis. Essai de thématisation et de systématisation, (Academy of African Thought, Sect. I, vol. 2), Kinshasa-Munich 1987; new ed., Munich-Paris, 2004.
  • Bilolo, Mubabinge, "Les cosmo-théologies philosophiques de l’Égypte Antique. Problématique, prémisses herméneutiques et problèmes majeurs, (Academy of African Thought, Sect. I, vol. 1)", Kinshasa-Munich 1986; new ed., Munich-Paris, 2003.
  • Bilolo, Mubabinge, "Métaphysique Pharaonique IIIème millénaire av. J.-C. (Academy of African Thought & C.A. Diop-Center for Egyptological Studies-INADEP, Sect. I, vol. 4)", Kinshasa-Munich 1995 ; new ed., Munich-Paris, 2003.
  • Bilolo, Mubabinge, "Le Créateur et la Création dans la pensée memphite et amarnienne. Approche synoptique du Document Philosophique de Memphis et du Grand Hymne Théologique d'Echnaton, (Academy of African Thought, Sect. I, vol. 2)", Kinshasa-Munich 1988; new ed., Munich-Paris, 2004.
  • Pinch, Geraldine, "Egyptian Mythology: A Guide to the Gods, Goddesses, and Traditions of ancient Egypt". Oxford University Press, 2004. ISBN 0-19-517024-5

Liên kết ngoài


+++++++++++++++++++++++++++++++++

1.8  Tôn giáo Ai Cập cổ đại

Kiến trúc Ai Cập cổ đại

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
SaintPierre1.JPG

Lịch sử kiến trúc phương Tây 
Kiến trúc thời kì đồ đá
Kiến trúc Ai Cập cổ đại
Kiến trúc Lưỡng Hà
Kiến trúc Cổ điển
Kiến trúc Hy Lạp cổ đại
Kiến trúc La Mã cổ đại
Kiến trúc Trung cổ
Kiến trúc Byzantine
Kiến trúc Roman
Kiến trúc Gothic
Kiến trúc Phục Hưng
Kiến trúc Baroque
Kiến trúc Rococo
Kiến trúc Tân Cổ điển
Kiến trúc Hiện đại
Kiến trúc Hậu Hiện đại
Chủ nghĩa Phê bình bản địa

Các bài viết liên quan

Trang trí trần trong sảnh chính của Medinet habu
Nhà nước Ai Cập cổ đại là một trong những nhà nước ra đời sớm nhất ở lưu vực sông Nin vùng đông bắc châu Phi. Nền văn minh Ai Cập cổ đại là một trong những nền văn minh cổ xưa nhất và rực rỡ nhất của nhân loại.
Đặc điểm của kiến trúc Ai Cập là công trình có quy mô lớn, kích thước đồ sộ, nặng nề và thần bí. Trước khi nhắc đến sự phát triển của nghệ thuật kiến trúc Ai Cập cổ đại, phải nói đến sự khéo tay trong nghề làm đá của những người thợ giỏi trong xã hội Ai Cập cổ đại. Vật liệu đá trong xã hội Ai Cập có nhiều loại: đá vôi, đá sa thạch, đá đen, đá thạch anh, đá hoa cương, đá minh ngọc... Kinh nghiệm xây dựng thủy lợi trên hai bờ sông Nin giúp cho người dân Ai Cập phát minh ra máy nâng và vận chuyển, biết cách tổ chức lao động cho hàng vạn người một lúc. Mặt bằng, mặt đứng, mặt cắt của công trình kiến trúc được dùng với thước đo. Việc sử dụng dụng cụ như rìu, búathước thủy chuẩn cũng rất chuyên nghiệp.

Mục lục

Kim tự tháp

Người Ai Cập cổ đại có tục lệ ướp xác, tạo thành các "mummy" và chôn chúng trong những ngôi mộ đồ sộ là MastabaKim tự tháp. Mastaba là lăng mộ của tầng lớp quý tộc, là một khối xây bằng đá, có mặt cắt hình thang, mặt bằng hình chữ nhật. Trong Mastaba có ba phòng: sảnh, phòng tế lễ và phòng thờ (nơi đặt tượng người chết). Từ mặt trên của Mastaba người ta đào một giếng hình tròn hoặc hình vuông, sâu đến khoảng 30 m. Đáy giếng thông sang một hành lang rồi đến phòng mai táng (nơi để quan tài). Sau khi chôn người chết, giếng được lấp kín. Ở Ai Cập còn tìm thấy nhiều nơi có dấu vết của các khu vực có Masataba như khu lăng mộ vua chúa ở Memphis, xây dựng ở vương triều thứ ba, khoảng thế kỷ 18 trước Công nguyên. Loại hình kiến trúc này là nguồn gốc ban đầu của các Kim tự tháp.
Một trong những Kim tự tháp lớn xuất hiện đầu tiên là Kim tự tháp Djoser. Nó có đáy hình chữ nhật, hai cạnh dài 126 m và 106 m, cao 60 m, có 6 bậc, các tầng thu nhỏ về phía trên. Công trình này do Imhotep chỉ đạo xây dựng. Ông là một vị quan đầu triều của nhà vua vương triều thứ 3, năm 2770 trước Công nguyên. Ngoài Kim tự tháp này còn có Kim tự tháp ở Meidum và ở Dashur là những loại có ba bậc cấp. Sau này, chúng được nghiên cứu và phát triển thành Kim tự tháp trơn, tiêu biểu nhất là quần thể Kim tự tháp ở Giza. Quần thể này bao gồm ba Kim tự tháp lớn, một con nhân sư Sphinx, 6 Kim tự tháp nhỏ, một số đền đài và 400 Mastaba. Ba Kim tự tháp trên là: Kim tự tháp Kheops (hay Kim tự tháp lớn tại Giza), Kim tự tháp KhephrenKim tự tháp Mykerinos. Các Kim tự tháp này mang tên các nhà vua của Vương triều thứ 4; các kim tự tháp nhỏ hơn là của các hoàng hậu cùng thời. Vật liệu xây dựng tháp là đá vôi được khai thác tại chỗ, bên ngoài được phủ lớp đá vôi trắng nhẵn bóng, lấy từ các mỏ đá ở Tourah, trên hữu ngạng sông Nin, lớp phủ này ngày nay đã bị tróc mất.

Đền thờ


Mặt bằng đền Luxor
Những đền thờ Ai Cập cổ đại dùng để thờ thần Mặt Trời. Thờ thần Mặt Trời cũng chính là thờ vua. Đền thờ thường có một cái cửa lớn, đường bệ và phù hợp với tính chất của các nghi lễ tôn giáo. Phần quan trọng thứ hai của đền là khu vực nội bộ của đại điện. Đây là nơi vua tiếp nhận sự sùng bái của một số người nên không gian được tổ chức sao cho u uẩn, kín đáo, mang tính thần bí. Đôi khi, đền còn được bao quanh bởi bức tường thành, ở đây có trổ một cửa gọi là tiền tháp môn (propylon), sau đó là một con đường lát đá, rộng 34 m, dài khoảng 140 m, hai bên đặt những con Sphinx, tiếp đến là các tháp bia, tượng vua và tháp môn.

Nhà ở

Vào khoảng thế kỷ 17 TCN, nhiều loại hình nhà ở được thấy ở thành Telel Amarna. Có ba loại nhà chính sau :
  • Nhà ở ba gian, vật liệu xây dựng là lau sậy và đất sét, mái bằng.
  • Nhà cho quan lại, tường gạch cao, mở ba cửa quay ra phố.
  • Loại lâu đài, dinh thự có ao cá, vườn cây phía trước, vật liệu dùng cột gỗ, tường gạch, dầm gỗ, mái bằng và trong nhà có trang trí tranh tường. Các cung điện của nhà vua có quy mô lớn, nhấn mạnh trục dọc, bên trong các phòng có nhiều cột, ngoài trục dọc còn có thể có trục phụ. Gỗ làm cung điện, Ai Cập không có mà được vận chuyển từ Syrie tới.

Xem thêm













****************************************

NGUỒN GỐC VĂN MINH NHÂN LOẠI .





PHẦN 1 . 
Từ những manh mối nhỏ về di chỉ 26, do nhà khảo cổ học Winkle để lại trong những ghi chép của mình, nhóm chuyên gia khảo cổ do David M.Rohl dẫn đầu, đã lần theo dấu vết và phát hiện những điều thú vị. Dựa trên những khám phá này, David M.Rohl đã dựng nên bức tranh về sự hình thành và phát triển của nền văn minh thế giới cổ đại từ dấu tích vườn EDEN – vùng đất các vị thần được ghi chép trong Kinh Thánh – cho đến những dấu tích rực rỡ của văn minh Ai Cập cổ đại. Với ngôn ngữ mô tả đặc sắc, “Nguồn gốc văn minh nhân loại” như một bộ phim lịch sử sống động được trình chiếu có lớp lang cho người đọc theo dõi từ mốc điểm khởi nguyên của một quá khứ kỳ bí, hấp dẫn đến những chuỗi dài biến động như để giải thích rõ ràng và đầy đủ hơn về nguồn gốc sự phát triển của thế giới nhân loại ngày nay.

Mục lục:
 Lời nói đầu Dẫn nhập 
Phần 1: Từ sương mù của thời gian 

Chương 1: Cuộc tìm kiếm vườn địa đàng
Chương 2: Đất ARATTA 

Phần 2: Những anh hùng vĩ đại 
Chương 3: Cuộc di cư vĩ đại 
Chương 4: Đại hồng thuỷ 
Chương 5: Định niên đại hồng thuỷ 
Chương 6: Những người tiền hồng thuỷ 
Chương 7: Bên kia thời đại hoàng kim 
Chương 8: Thiên đường tìm lại 

Phần 3: Những tín đồ của HORUS 

Chương 9: Những con thuyền của sa mạc 
Chương 10: Chủng tộc triều đại 
Chương 11: Những nhà sáng lập 
Chương 12: Cầu thang lên trời 
Chương 13: Đảo ngọn lửa 
Chương 14: Sáng thế 

Phần 4: Tham khảo 
Phụ lục A: Tân niên đại học dành cho Ai Cập thuộc thời kỳ sớm 
Phụ lục B: Chiến dịch năm 8 của Sargon 
Phụ lục C: Tân niên đại của MESOPOTAMIA.




Nguồn :  http://truyen.enterplus.org/doc-truyen-audio/Nguon-Goc-Van-Minh-Nhan-Loai-79.html#.Uaa3QNJHJMg#ixzz2Ujrl07Gm



Bài  1 .


Bài  2 .



Bài  3 .


Bài  4 .


Bài  5 .





------------------------------------------------------------------------------------------- 
 Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic. 
 Pure mathematics is, in its way, the poetry of logical ideas.
 Albert Einstein .






Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét